Có bao nhiều phụ nữ trên thế giới
Dân số nam và nữ trên thế giới gần bằng nhau, nam nhiều hơn nữ một chút. Hiện cứ 100 phụ nữ trên thế giới có 102 đàn ông, với tổng số khoảng 3.487.869.561 đàn ông còn sống trên thế giới hiện nay. Có nhiều nam giới được sinh ra mỗi năm và dân số nam trưởng thành trên toàn cầu cao hơn dân số nữ trưởng thành. Tuy nhiên, tuổi thọ của nam thấp hơn, có nghĩa là ở nhóm tuổi từ 55 trở lên, dân số nữ cao hơn nam giới trưởng thành Bức tranh dân số thế giới 2020: Những gam màu u ám
17/11/2020 - 09:12 AM
Cỡ chữ
Tháng 7/2020, bức tranh dân số thế giới năm 2020 được khắc họa qua báo cáo Tình trạng được Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) công bố cho thấy những câu chuyện đáng buồn về xâm phạm quyền và thân thể con người, đặc biệt với trẻ em và phụ nữ bất chấp các bước tiến lớn về bình đẳng giới trong tiếp cận y tế và giáo dục. Đây dù là những vấn đề từ lâu đã bị lên án trong các công ước quốc tế về quyền con người cũng như luật pháp quốc gia, nhưng vẫn đang diễn ra ở cả nước đang phát triển lẫn nước phát triển và được thực hiện bởi cộng đồng tôn giáo, nhân viên y tế, doanh nghiệp, cơ quan chính phủ hay thậm chí là do thành viên trong gia đình. Mỗi hành vi có hại đều có thể gây ra tổn thương ngắn hạn và dài hạn không chỉ về thể chất, tinh thần hay cảm xúc đối với một con người mà còn là sự tổn thất về kinh tế, sự tổn hại uy tín, hạ thấp chỗ đứng của một con người trong cộng đồng. Không những để lại hậu quả bi kịch đối với mỗi cá nhân, những hành vi có hại được cho là “cuộc khủng hoảng ngầm mang tính đặc thù vùng miền” vẫn đang tác động đến toàn xã hội.
Tỷ lệ giới tính khi sinh tự nhiên là 105 hoặc 106 nam trên 100 nữ. Theo Báo cáo tình trạng dân số thế giới 2020 của UNFPA, 3 quốc gia Hàn Quốc, Singapore và Tunisa từng có tỷ lệ giới tính mất cân bằng nhưng hiện đã trở lại mức gần với tỷ lệ giới tính khi sinh tự nhiên và lần lượt là 105,4; 106,1 và 107,0. Trung Quốc và Ấn Độ hiện là 2 quốc gia có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất thế giới với các con số 111,9 và 111,6. Hai quốc gia này cũng chiếm khoảng 90-95% trong số ước tính 1,2 triệu - 1,5 triệu trẻ em gái mất đi khi sinh hàng năm trên toàn thế giới do việc lựa chọn giới tính thai nhi. Đây cũng là 2 quốc gia chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số trẻ em sinh ra mỗi năm. Có một xu hướng chung tại các quốc gia là việc lựa chọn giới tính thai nhi thường không thực hiện đối với con đầu lòng. Tuy nhiên, về sau, họ có thể quyết định phá thai để lựa chọn giới tính nếu con đầu lòng là con gái.
Các chuyên gia phân tích, tư tưởng ưa thích con trai được thúc đẩy từ vấn đề nghèo đói bởi theo định kiến, nam giới là trụ cột, kiếm tiền nuôi gia đình và người bảo vệ gia đình. Ngược lại, phụ nữ được coi là “người chăm sóc”, phụ trách nội trợ, chăm con, chăm người cao tuổi - những công việc cần ít giáo dục chính quy và không cần trả công thỏa đáng. Tuy nhiên, nghèo chưa phải là toàn bộ câu chuyện mà còn là quan niệm con trai nối dõi tông đường ở một số quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ở châu Á, bị ảnh hưởng lớn bởi tư tưởng Nho giáo truyền thống.
Tư tưởng ưa thích con trai đã dẫn đến tình trạng đàn ông có nguy cơ không tìm được bạn đời và có con. Điều này có thể làm gia tăng nguy cơ bạo lực đối với phụ nữ và tình trạng buôn bán người.
Theo một ước tính gần đây của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, trung bình sẽ mất gần 100 năm để xóa bỏ khoảng cách giữa nam và nữ nói chung, và 257 năm để xóa bỏ khoảng cách về sự tham gia vào nền kinh tế giữa nam và nữ. Một khảo sát trên 80% dân số thế giới cũng cho thấy 90% nam giới và cả nữ giới đều có một số định kiến nhất định đối với phụ nữ (UNDP, 2020). Năm 2020 là năm bắt đầu một “thập kỷ hành động” hướng tới hoàn thành các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) đến năm 2030, bao gồm Chỉ tiêu 5.3 về chấm dứt các thực hành có hại. Để đảm bảo lời hứa đặt ra trong Chương trình Hành động của Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển năm 1994 cũng như Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, bảo vệ hàng triệu phụ nữ và trẻ em gái, UNFPA khuyến nghị chính phủ các nước trên toàn thế giới cần đẩy mạnh nỗ lực thay đổi nhận thức cổ xúy bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em gái. Đồng thời, cũng cần có những sự thay đổi trong hệ thống kinh tế, giáo dục, pháp lý và chăm sóc y tế để phản ánh và hạn chế thấp các tổn hại mà những hành vi trên gây ra./. Ngọc Linh
Về trang trước Gửi email In trang
|