Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Show Tính cấp thiết phải tiến hành đổi mới kinh tế đất nước nhìn từ bình diện quốc tế Vào đầu những năm 1980, cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp của các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới bắt đầu bộc lộ sự lạc hậu. Trong xây dựng kinh tế, các quốc gia này chỉ duy trì quan hệ khép kín trong Hội đồng Tương trợ kinh tế (Khối SEV). Điều này đi ngược xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa về kinh tế đang phát triển mạnh mẽ. Quan hệ giữa các Đảng Cộng sản và các nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng mắc nhiều sai lầm. Một khuôn mẫu Xô Viết đã áp đặt cho hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa mà bỏ qua sự khác nhau về lịch sử, xã hội, địa lý, văn hóa cũng như điểm xuất phát và những điều kiện riêng của từng nước. Những nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, những sai lầm trong thực tiễn chậm được phát hiện, những hậu quả chưa khắc phục kịp thời, cùng với sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” đã đẩy các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, đặc biệt là Liên Xô và các nước Đông Âu rơi vào sự khủng hoảng toàn diện. Lòng tin của người dân vào Đảng Cộng sản ở các nước, vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội giảm sút nghiêm trọng. Thực tiễn đó, đặt ra yêu cầu các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới, trong đó, có Việt Nam phải tiến hành cải cách, đổi mới đất nước toàn diện. Nhận thức rõ tính cấp bách phải khắc phục được những khó khăn, hạn chế và sai lầm nảy sinh từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều Đảng Cộng sản cầm quyền đã chủ động tiến hành công cuộc cải cách, đổi mới đất nước như Đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1978, Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Lao động Triều Tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam từ nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20. Thực tiễn cho thấy Trung Quốc, Việt Nam, Cuba từng bước vượt qua khủng hoảng, đạt được nhiều thành tựu đáng kể về chính trị, xã hội, kinh tế sau thời gian cải cách, đổi mới đất nước. Tuy vậy, do nhiều nguyên nhân nên kết quả ở mỗi nước xã hội chủ nghĩa không hoàn toàn giống nhau, thậm chí trái ngược nhau. Một số Đảng Cộng sản không tìm ra lối đi thích hợp, dao động hoặc xa rời những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội, mất cảnh giác trước thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc nên công cuộc cải tổ, đổi mới đất nước lâm vào bế tắc và thất bại. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô vào cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ 20 là minh chứng sinh động cho nhận định này. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công cuộc đổi mới kinh tế đất nước Thực tiễn cho thấy để tiếp tục giữ vững chế độ, ổn định đời sống của người dân, Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Trong đó, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời đại. Quá trình này đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân không ngừng tìm tòi, sáng tạo có tính cách mạng. Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa IV (tháng 9/1979) được đánh giá là mốc khởi đầu của công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta. Tại Hội nghị này, lần đầu tiên Đảng đưa ra quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ những quan điểm, chủ trương cơ bản này, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách, thể chế mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá như Chỉ thị 357 của Chính phủ cho phép nông dân được nuôi và mua bán trâu bò; Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư về “cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”… Hội nghị Trung ương 6 khóa V (7/1984) đã nhận định nền kinh tế nước ta hiện nay đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý năng động, có khả năng bãi bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bảo thủ trì trệ và bao cấp tràn lan, thực hiện đúng đắn tập trung dân chủ. Tiếp đến tại Hội nghị Trung ương 7 khóa V (12/1984), Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục khẳng định, điều quan trọng nhất hiện nay là phải kiên quyết nhanh chóng bãi bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển toàn bộ nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6/1985) có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc cải cách kinh tế đất nước. Hội nghị tập trung bàn và quyết định việc cải cách một bước giá Đến cuối năm 1985, đầu năm 1986, do ảnh hưởng từ những biến động chính trị của thế giới, đặc biệt sự khủng hoảng trong hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, tình hình Việt Nam hết sức nguy cấp. Trước hoàn cảnh đó, trong Nghị quyết số 31/NQ/TW ban hành ngày 24/2/1986, Bộ Chính trị nhấn mạnh cần có những biện pháp xử lý kiên quyết, đúng đắn, nhanh chóng xoay chuyển tình thế, đưa hoạt động kinh tế - xã hội đất nước theo đúng hướng mà các Nghị quyết 6, 7, 8 Ban Chấp hành Trung ương đã đề ra. Tiếp đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) của Đảng đánh dấu bước ngoặt có tính lịch sử về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam. Đại hội khẳng định quan điểm đổi mới quản lý kinh tế như sau: (i) Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên cơ sở đổi mới cơ cấu kinh tế, chấp nhận kinh tế nhiều thành phần và chuyển sang nền sản xuất hàng hóa. (ii) Kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế quản lý có kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. (iii) Cả nước là một thị trường thống nhất, có nhiều thành phần kinh tế tham gia; Nhà nước bỏ quyền định giá, giữ giá, thay vào đó điều tiết giá bằng các biện pháp, công cụ kinh tế. Sau năm 1986, quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng ta tiếp tục diễn ra từng bước theo hướng vừa làm vừa thử nghiệm, sửa đổi, bổ sung, cải tiến trên cơ sở đúc rút những kinh nghiệm của thực tiễn. Đảng ta từng bước xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế cũ, dần hình thành cơ chế mới - cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành công to lớn trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước sau gần 40 năm đã chứng minh định hướng, chủ trương và phương thức đổi mới của Đảng là đúng đắn. Mặt khác, những thành công đó đã cho thấy khả năng lãnh đạo đất nước xoay chuyển tình thế, kịp thời thích nghi với bối cảnh chính trị - kinh tế mới của quốc tế nhưng vẫn giữ được những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Hồ Phong Tin liên quanKinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nó được mô tả là một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, trong đó nhà nước giữ vai trò chủ đạo và có trách nhiệm định hướng nề kinh tế, với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội.[1]
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời kỳ Đổi Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai. Mô hình kinh tế này khá tương đồng với mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (socialist market economy) của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong đó các mô hình kinh tế tập thể, nhà nước, tư nhân cùng tồn tại, và khu vực nhà nước giữ vai trò chủ đạo.[2] Mục lục
Cải cách dẫn đến thành lậpSửa đổiNhững cải cách kinh tế đổi mới được Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986 trong Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Những cải cách này đã tạo ra một vai trò lớn hơn cho các lực lượng thị trường trong việc phối hợp hoạt động kinh tế giữa các doanh nghiệp và các cơ quan chính phủ, và cho phép sở hữu tư nhân của các doanh nghiệp nhỏ và tạo ra một sàn giao dịch chứng khoán cho cả doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.[3] Các cải cách kinh tế nhằm tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam nền kinh tế kế hoạch kiểu Liên Xô và hướng tới một nền kinh tế hỗn hợp hoạt động theo cơ chế thị trường với mục đích trở thành một giai đoạn chuyển tiếp trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.[4] Mục tiêu của hệ thống kinh tế này là cải thiện lực lượng sản xuất của nền kinh tế, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc cho nền tảng của chủ nghĩa xã hội và cho phép Việt Nam hội nhập tốt hơn với nền kinh tế thế giới. Đầu những năm 1990, Việt Nam đã chấp nhận một số lời khuyên cải cách của Ngân hàng Thế giới về tự do hóa thị trường, nhưng từ chối các chương trình điều chỉnh cơ cấu và các điều kiện viện trợ đòi hỏi tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước.[5] Cơ sở lý luậnSửa đổiĐảng Cộng sản Việt Nam cho rằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với quan điểm của chủ nghĩa Marx cổ điển về phát triển kinh tế và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cho rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xuất hiện khi điều kiện vật chất đã được phát triển đến khi đủ để các mối quan hệ xã hội chủ nghĩa phát triển. Mô hình thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là một bước quan trọng để đạt được sự tăng trưởng và hiện đại hóa kinh tế cần thiết trong khi cùng tồn tại trong nền kinh tế thị trường toàn cầu và hưởng lợi từ thương mại toàn cầu.[6] Đảng Cộng sản Việt Nam đã tái khẳng định cam kết của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với những cải cách của thời kỳ Đổi Mới.[7] Mô hình kinh tế này được bảo vệ từ quan điểm của chủ nghĩa Marx, trong đó tuyên bố rằng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện sau khi phát triển nền tảng chủ nghĩa xã hội thông qua việc thiết lập nền kinh tế thị trường và kinh tế trao đổi hàng hóa, và chủ nghĩa xã hội sẽ chỉ xuất hiện sau khi giai đoạn này hoàn thành vai trò lịch sử của nó, và sẽ biến đổi theo xu hướng dần tự chuyển hóa.[8] Những người ủng hộ mô hình này cho rằng hệ thống kinh tế của Liên Xô và các quốc gia vệ tinh đã cố gắng đi từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế kế hoạch bằng các mệnh lệnh hành chính mà không trải qua giai đoạn cần thiết để phát triển nền kinh tế thị trường.[9] Đặc trưngSửa đổiCác đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được thể hiện ở những điểm sau:
Nhược điểmSửa đổiTheo đánh giá của nhiều chuyên gia, trong quá trình thực hiện, chính phủ Việt Nam chưa tạo được môi trường kinh doanh thật sự lành mạnh, bình đẳng. Hiến pháp đã quy định kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nhưng cũng quy định các thành phần kinh tế là bình đẳng, cùng hợp tác và cùng cạnh tranh. Tuy nhiên, trong thực tiễn, khu vực kinh tế tư nhân không có nhiều cơ hội tiếp cận vốn, đất đai, thông tin, mất nhiều cơ hội trong đấu thầu cũng như tiếp cận thị trường như khu vực kinh tế nhà nước. Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước vẫn được "ưu ái" về mọi phương diện, chiếm nguồn lực lớn nhưng lại sử dụng không hiệu quả, nhiều dự án thất thoát, làm ăn thua lỗ, gây tổn hại lớn cho nhà nước và xã hội.[10] Điển hình là 12 đại dự án thua lỗ của ngành Công Thương đã để thiệt hại hàng chục nghìn tỷ đồng, mất rất nhiều năm không thể giải quyết dứt điểm.[11] Ngoài ra, cơ chế "xin - cho" trong khu vực nhà nước đã thúc đẩy hình thành khu vực hưởng lợi trên lưng người khác (rent-seeking) thu lợi nhờ các đặc quyền hoặc độc quyền kinh doanh.[12] Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, chồng chéo, nhiều Bộ Luật ban hành một thời gian chưa thi hành đã phải sửa, không ít Luật đã ban hành nhưng không đi vào thực tiễn. Việc lấy ý kiến của người dân, doanh nghiệp, các chuyên gia khi xây dựng pháp luật vẫn mang tính chung chung, chưa thực sự đảm bảo công khai minh bạch, đôi khi vẫn có tính áp đặt, đẩy cái khó cho doanh nghiệp. Trong khi đó, những người làm luật, bộ máy quản lý gần như không phải chịu trách nhiệm khi xây dựng pháp luật thiếu tính thực tiễn, thiếu đồng bộ, gây tổn hại cho nền kinh tế.[10] Việc quản lý kém hiệu quả các nguồn tài nguyên kinh tế khiến tình trạng tham nhũng xảy ra thường xuyên trong bộ máy quan liêu cồng kềnh dẫn đến đầu tư nhà nước vào nền kinh tế đạt hiệu quả thấp. Chi phí đầu tư công mà Việt Nam phải bỏ ra để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn nhiều quốc gia khác trong khu vực. Hệ số ICOR của Việt Nam trong các năm 2001-2006 là 5,1, nghĩa là cần 5,1 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP, cao gấp 1,5-2 lần nhiều nước trong khu vực trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá. Đặc biệt, trong giai đoạn 2006-2010, chỉ số này đã tăng lên 10,52, tức là gấp khoảng 3,5 lần Hàn Quốc và Đài Loan giai đoạn 1961-1980, gấp 2,5 lần Thái Lan giai đoạn 1981-1995 và Trung quốc giai đoạn 2001-2006.[13] Theo Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2016 của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ công bố, có khoảng 66% doanh nghiệp tại các tỉnh có chỉ số cạnh tranh mức trung bình đã phải "móc hầu bao" cho các khoản không chính thức. Việc các doanh nghiệp phải mất nhiều chi phí để "bôi trơn" đã ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh, nản lòng các nhà đầu tư.[10] Nhận xétSửa đổiCho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ ràng, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những nguyên nhân mà Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra là do mô hình này hoàn toàn mới, chưa từng có tiền lệ trong lịch sử.[14][15]
Thăm dò ý kiếnSửa đổiTheo một khảo sát của Trung tâm nghiên cứu Pew vào năm 2015, 95% số người Việt Nam được hỏi ủng hộ thị trường tự do, trong khi ở Mỹ, có tới 25% số người được hỏi nghi ngờ về tính hiệu quả của thị trường tự do.[18] Khảo sát thay đổi cảm nhận về Nhà nước và thị trường của người Việt Nam" - CAMS 2014 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho thấy: trong 1.600 phản hồi, có 89% ủng hộ mô hình kinh tế thị trường; 71% ủng hộ sở hữu tư nhân trong khi chỉ có khoảng 4% lựa chọn sở hữu nhà nước, 94% yêu cầu minh bạch trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách tại Việt Nam, 99% ủng hộ chủ trương tư nhân hóa một số dịch vụ công. Nhưng mặt khác, tỷ lệ "ủng hộ song còn quan ngại" việc tư nhân hóa dịch vụ công vẫn còn cao hơn tỷ lệ "hoàn toàn ủng hộ" chủ trương này (57% so với 42%). Đặc biệt, 75% vẫn mong muốn Nhà nước có chính sách can thiệp, bình ổn giá cả do lo ngại sẽ bị ảnh hưởng bởi những khiếm khuyết của thị trường. Kết quả khảo sát cho thấy một thực tế khá nghịch lý: đa số người Việt Nam vừa ủng hộ kinh tế tư nhân cạnh tranh nhưng lại cũng muốn bàn tay can thiệp của Nhà nước đối với những mặt hàng quan trọng (bình ổn giá, trợ cấp,...) để đảm bảo quyền lợi cho họ, tức là vừa muốn có cạnh tranh tư nhân lại vừa muốn được Nhà nước bảo trợ. Nguyên nhân là do những bất ổn trong nền kinh tế thị trường khiến người dân cảm thấy không an toàn. Mặt khác tại Việt Nam, những vấn đề về thiếu minh bạch thông tin, tình trạng không tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp, lách luật, móc nối để ép giá người tiêu dùng,... diễn ra phổ biến khiến ưu điểm của kinh tế thị trường ít được phát huy; trong khi những khiếm khuyết của kinh tế thị trường lại thường xuyên phát sinh. Điều này khiến người dân cảm thấy sợ bị mất quyền lợi và quay sang trông chờ ở sự trợ giúp của Nhà nước.[19][20] Xem thêmSửa đổi
Tham khảoSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|