Ngũ tịnh nhục nghĩa la gì

Tam tịnh nhục

Tam tịnh nhục là ba món thịt tịnh :

  1. Mắt chẳng ngó thấy người ta giết
  2. Tai chẳng ngó thấy người ta giết
  3. Chẳng nghi là giết vì mình.

Ba thứ thịt ấy trong giới Tiểu Thừa Tỳ Kheo ăn được cả. Còn bên Đại Thừa hễ cứ thấy thịt là quí Thầy không ăn và Phật tử tại gia Đại thừa nhằm những ngày ăn chay cũng không được dùng đến Tam Tịnh Nhục.

Vấn Đề Ăn Chay, Ăn Mặn Trong Đạo Phật

Trích Phật Giáo Và Vấn Đề Chay Mặn, Phân Tích Quan Điểm Của Đức Phật Về Việc Sử Dụng Thịt

– V.A. Gunasekara –

Luật Tam Tịnh Nhục của Đức Phật

Ăn chay là một sự thực hành đang phát triển trong xã hội hiện đại và một số người nhiệt tình mới nổi lên đã chỉ tay phê phán nhắm vào Ðức Phật là nguời đã sử dụng thịt như được ghi chép lại, và nhắm cả tới những Phật tử hiện đại đã sử dụng thịt. Ðây cũng là cơ hội đáng để chúng ta nghiên cứu lại thái độ của Ðức Phật về việc sử dụng thịt cá. Trước tiên chúng ta sẽ nói rõ giới luật Ðức Phật đã để lại có liên quan đến việc sử dụng thịt cá, và rồi sẽ điều tra nghiên cứu các bài phân tích về giới luật này. Mặc dù giới luật của Ðức Phật đã được công bố rất nhiều lần, có rất ít bàn luận về lý lẽ cơ bản của qui luật này. Chính vì điều đó mà bài viết này được tạo ra.

Có đôi điều gây tranh cãi về thành phần món ăn cuối cùng, “sùkaramaddava”, mà Ðức Phật đã dùng. Một số người (tin theo lời bình luận của ngài Buddhaghosa – Phật Âm) cho là Ngài đã dùng thịt heo, một số người khác (tin theo trường phái Bắc Tông – Mahayana) lại cho đó là dược liệu hay chỉ là một loại nấm rừng. Tuy nhiên còn có một số sự kiện khác được ghi lại về Ðức Phật cũng như các Tỳ Kheo tiên khởi đã ăn thịt. Chi tiết cổ xưa nhất liên quan đến vụ này được ghi trong câu chuyện viết về việc “cải đạo”của vị Tướng Quân Siha đã được ghi trong Luật Tạng (Mahàvagga, VI, 31-2). Vị tướng quân này đã mời Ðức Phật và các vị Tỳ Kheo của ngài dùng một bữa trai Tăng trong đó thịt đã được cúng duờng. Những người Kỳ-na giáo vốn đã được hưởng sự bảo trợ đặc biệt của viên tướng này từ trước, đã lan truyền câu chuyện là vị Tướng Quân Siha đã giết một “con vật béo” (thùla pasu) vào dịp đó và chính Ðức Phật đã cố ý tham dự bữa tiệc đó, và như thế, Ngài đã phạm phải một hành vi gây hậu quả nghiệp chướng nghiêm trọng (pàticcakamm a). Trong thực tế, con vật đã không được giết mổ chỉ để dành riêng cho dịp đó, nhưng thịt đã được mua ở chợ. Ðức Phật đã tận dụng cơ hội này, Ngài đã đề ra một giới luật có liên quan đến việc sử dụng thịt và cá.

Ðức Phật đã nói với chư tăng: “Quý thầy không được cố ý sử dụng thịt đã được giết mổ chỉ dành riêng cho quý thầy; Như Lai chỉ cho phép sử dụng thịt và cá không bị phiền trách [1] trong ba trường hợp sau đây: không thấy, không nghe và không nghi ngờ cả ” (Luật I, 233). Chúng tôi sẽ đề cập đến giới luật này khi nói về luật Tam Tịnh Nhục của Ðức Phật quy định về ăn thịt [2]. Ba điều kiện này đòi hỏi không được chứng kiến công việc giết mổ, không được nghe nói thịt đó được giết mổ (để cung cấp cho người trong cuộc), và ngay cả khi không có thông tin như vậy thì cũng không có gì phải nghi ngờ về hai trường hợp trên (nghĩa là mắt, tai và tâm ý phải thõa mãn được “sự vô can” về món thịt đó).

Với sự căn bản của luật Tam tịnh nhục đó, các kinh văn Pàli đã phân biệt có hai loại thịt, gọi là “uddissakatamasa” và “pavattamasa”. Danh từ thứ nhất – uddissakatamasa – được dùng để chỉ loại thịt được giết mổ chỉ dành riêng cho một người tiêu thụ nào đó. Loại thịt này không được luật Tam tịnh nhục cho phép ăn. Cho dù không xác minh, một tiêu chuẩn thô sơ có thể dùng để xác định loại thịt này là do người giết mổ đã có ý định rõ ràng chỉ dành riêng cho một người cá biệt nào đó sử dụng, và nếu như người đó sử dụng thì không những người đó cùng chia sẻ thịt không mà thôi, mà còn chia sẻ cả những hậu quả nghiệp chướng gắn liền với việc cung cấp loại thịt đó. Danh từ thứ hai được dùng để chỉ một loại thịt khác được phép dùng – pavattamasa – theo nghĩa đen được hiểu là “loại thịt đã sẵn có” (bà Horner, Hội Thánh điển Pàli, dịch là “thịt có sẵn trong tay”). Từ đó, đã có một số vụ tranh cãi để xem những loại thịt nào thuộc vào loại “loại thịt đã sẵn có”. Một số người giải thích cho là đó là loại thịt những con vật bị giết một cách tình cờ, hay bị các con vật khác giết chết. Nhưng trong thực tế nó gồm cả thịt được bán ở ngoài thị trường. Ðiều này được làm rõ bằng một sự kiện ghi chép trong tạng Luật, kể về bà Suppiyà sai tớ gái ra chợ để mua thịt về (nấu súp cho một vị sư ốm nặng) và người đầy tớ gái về cho bà biết là không thể kiếm đuợc loại thịt đã giết mổ sẵn vì “hôm nay không phải là ngày giết mổ”. Ðiều này cho thấy thịt giết mổ bán ở ngoài chợ được coi như là loại thịt pavatta-masa, và do đó là loại thịt được phép sử dụng. Loại thịt này được xem như là “vô can”. Vì loại này thuộc dạng nghiệp chướng trung hòa đối với người tiêu dùng (nhưng đương nhiên người giết mổ và cung cấp phải chịu trách nhiệm nghiệp chướng). Chúng ta sẽ đề cập đến hai loại thịt này như là “thịt nghiệp tác” (karmically effective) và “thịt nghiệp trơ” (karmically neutral, “thịt có nghiệp trung tính, vô can”) [3]. Một phiên bản ngắn về sự kiện này đã được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh.

Trong kinh Jivaka thuộc Trung Bộ Kinh, cùng một giới luật như trên đã được giải thích cho y sĩ Jivaka. Bài kinh này đã xác định với nhiều lời lẽ về những nghiệp ác đi kèm theo việc vi phạm giới luật Tam Tịnh Nhục. Giới luật này đã được tái khẳng định khi Ðức Phật đã từ khước lời yêu cầu của Đề-bà-đạt-đa để đem việc ăn chay vào giới luật tu sĩ [4]. Cũng ghi nhận rằng luật tam Tịnh Nhục cũng thấy các tạng Luật của các bộ phái nguyên thủy khác, như bộ phái Pháp Tạng và Hữu Bộ (tuy nhiên không thấy viết trong kinh tạng của họ). Vi thế, có thể xem luật Tam Tịnh là một giới luật đích thực của Ðức Phật.

Sự phân biệt giữa hai loại thịt nghiệp tác và nghiệp trơ được dựa trên những cơ sở đạo đức. Tuy nhiên cũng còn có những luận cứ khác cho việc ăn chay, sẽ được đề cập đến trong phần 4 dưới đây. Ðức Phất cũng đã gán cho tầm quan trọng ít nhất vào một trong những lý do đó. Dựa trên những cơ sở này mà thịt của mười sinh vật sau đây bị cấm sử dụng, đó là: thịt người, thịt voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, cọp, beo, gấu và linh cẩu. Những bản văn chỉ đơn giản công bố những loại thịt đó là không “thích hợp” mà không đưa ra những phân tích chi tiết tại sao mười loại thịt lại là loại thịt bị cấm. Nhưng chúng ta có thể đoán rằng cấm như vậy vì đã được công chúng đồng ý như thế. [5]

Dựa theo quan điểm loại thịt nghiệp trơ mới được phép sử dụng trong cộng đồng Phật giáo, Ðức Phật đã yêu cầu không được sử dụng bất kỳ loại thịt nào mà không tìm hiểu rõ ràng căn nguyên (“na ca bhikkhave appativekkhitvà masam paribhunjitabbam”). Thiếu hiểu biết không thể là lý do để tự bào chữa được nếu như một loại thịt sai quy định đã được sử dụng. Ðây là trách nhiệm của người sử dụng để xác định loại thịt nào là thích hợp để tiêu dùng. Những giới luật được đề ra chủ yếu liên quan đến các vị tăng ni, nhưng cũng được áp dụng rộng rãi cho toàn thể cộng đồng Phật tử, tu sĩ lẫn cư sĩ.

Ngày nay, lối hành trì tại các quốc gia Nam Tông không giống nhau. Nhìn chung tại Sri Lanka, các nhà sư chỉ được dùng cá trong các bữa ăn, mặc dù số các nhà sư ăn chay đang gia tăng. Tại Thái Lan, dường như người ta thường cúng dường các món có thịt trong các bữa ăn của các vị sư.

Nguồn: https://quangduc.com/a1856/2-luat-tam-tinh-nhuc-cua-duc-phat

Ý KIẾN BẠN ĐỌC

Phan Cơ Trí
Khi đi khuất thực Đức Phật bảo các đệ tử là người ta cho gì mình nhận cái ấy, tất cả do ” Tuỳ duyên” chứ không được từ chối. Nếu các bạn hiểu được 2 chữ ” Tuỳ duyên” thì các bạn sẽ hiểu được ý nghĩa của 3 chữ ” Tam tịnh nhục” Nếu không hiểu được ” Tuỳ duyên” thì làm sao đủ trình độ, tri thức để hiểu được ” Tam tịch nhục”

Hoàng
Ăn tam tịnh nhục theo ý kiến của mình là do có thời kỳ này trồng trọt khó khăn, nên đức phật tạm dùng cách này để duy trì mạng sống, sau đó Ngài cấm hẳn.

Phúc
Nam mô bổn sư thích ca mâu ni phật. Tất cả đều đúng, tất cả đều sai. Ý kiến mọi người có đúng cũng có sai. Còn sự nói là còn có sai, trong sai có đúng. Trong đúng có sai, mỗi người 1 quan điểm. A di đà phật

Khoa Ho
Nói như bạn vậy đức Thích Ca Mâu Ni chế ra luật tam tịnh nhục là để ngụy biện cho sự thèm muốn máu thịt sao. Kiểu nói của bạn là đang phỉ báng Phật. Từ khi đầu thai làm ng cho đếm khi tu hành Giác ngộ là phải trải qua 1 thời gian tu học. Ko phải đùng 1 cái là bắt ăn chay liền mà phải có quá trình thứ tự. Phật chế tam tịnh nhục là để các Phật tử mới phát tâm dễ dàng đi theo con đường tu học. Ko bị quá áp bức mà thối lui.

Thiện
Bồ Tát thì không làm đổ máu chúng sanh. Còn ăn thịt thì máu chúng sinh vẫn còn đổ.

Trung
ăn Tam tịnh nhục là sự biện hộ cho việc thèm ăn máu thịt của chúng sanh mà thôi,tất cả chúng sanh đều là cha mẹ ta trong quá khứ ai nỡ ăn thịt cha mẹ mình cơ chứ.thôi đừng ngụy biện nữa
a di đà phật

Giác Ngộ Online

HỎI: Xin cho biết về quan niệm chay tịnh trong thời Thế Tôn và những vấn đề liên quan đến thọ dụng tam tịnh nhục trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy. (TÂM THÁI, Chợ Mới, An Giang; NGUYỄN HOÀNG, Q.9, TP.HCM)

Có thể vì những lời đồn đãi, xuyên tạc đầy ác ý trên nên mở đầu kinh Jivaka (Trung Bộ II, số 55), trước khi nói rõ về Tam tịnh nhục, tức ba thứ thịt thanh tịnh mà các Tỷ kheo được phép thọ dụng, Thế Tôn đã minh định: “Này Jivaka, những ai nói như sau: Vì Sa môn Gotama, họ giết hại các sinh vật. Và Sa môn Gotama tuy biết thế vẫn dùng các loại thịt được giết vì mình, được làm cho mình, những người ấy không nói chính lời của Ta, họ xuyên tạc Ta, không như chân, không như thật. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt không được thọ dụng: thấy, nghe và nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt không được thọ dụng. Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp, thịt được thọ dụng: không thấy, không nghe và không nghi (vì mình mà giết). Này Jivaka, Ta nói trong ba trường hợp này, thịt được thọ dụng”. Ngoài ra, còn có thuyết Ngũ tịnh nhục, tức tam tịnh nhục vừa kể trên cùng với thịt của các con thú tự chết và thịt mà các loai thú khác ăn còn dư.

ĐÁP: Bạn Tâm Thái và Nguyễn Hoàng thân mến!

Ngày nay khi nói đến ăn chay, đa phần người Phật tử Việt theo truyền thống Phật giáo Bắc tông thường nghĩ rằng ăn chay là thọ dụng những thực phẩm thuần thực vật, không ăn thịt cá và các gia vị cay nồng như hành, hẹ, tỏi, nén, kiệu. Tuy nhiên, vào thời Thế Tôn quan niệm chay tịnh chỉ mang ý nghĩa ăn trước giờ Ngọ va được ăn các thứ thịt thanh tịnh (Tam tịnh nhục).

Nhân duyên về việc sử dụng tịnh nhục, theo Luật tạng (Mahàvagga, VI, 31-2) có liên quan đến việc cúng dường của vị tướng quân Siha. Vị tướng quân này đã mời Ðức Phật và các Tỳ kheo thọ trai trong đó có dâng cúng món thịt. Những đạo sĩ Kỳ-na giáo vốn đã được hưởng sự bảo trợ đặc biệt của viên tướng này không hài lòng về việc đó nên đồn thổi rằng tướng quân Siha đã giết một con vật béo tốt để lam tiệc và chính Ðức Phật đã cố ý tham dự bữa tiệc ấy, và như thế, Ngài đã phạm phải một lỗi lầm gây hậu quả nghiệp chướng nghiêm trọng. Nhưng thực tế thì không phải như vậy.

Rõ ràng, thuyết Tam tịnh nhục và Ngũ tịnh nhục là cơ sở vững chắc cho hình thái ẩm thực của chư Tăng từ thời Thế Tôn tại thế cho đến trong Tăng đoàn Phật giáo Nguyên Thủy ngày nay. Tuy nhiên, trong thực tế thì tịnh nhục hầu hết là các loại thịt bày bán ngoài thị trường. Thuật ngữ pavattamasa là “loại thịt đã sẵn có” hay thịt “vô can” bao gồm thịt được giết mổ sẵn. Theo Mahàvagga II, chương Dược phẩm, tụng phẩm thứ nhì, thuật chuyện về nữ cư sĩ Suppiyà muốn cúng dường một vị Tỷ kheo, bảo người giúp việc rằng: “Hãy đi và tìm (mua) loại thịt đã được làm sẵn”. Như vậy, Luật tạng (Mahàvagga) đã xác định tịnh nhục bao gồm các loại thịt do các lò mổ cung cấp, bày bán ngoài thị trường. Ngoài ra, có 10 loại thịt đặc biệt khác mà các vị Tỷ kheo không được sử dụng. Đó là thịt người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu. Đây không phải là sự kiêng kỵ riêng cho một số loài nào (như Hồi giáo kiêng thịt heo, Ấn giáo kiêng thịt bò) mà vì những lý do sau: Thịt người thì không thể ăn vì quá dã man; thịt voi và thịt ngựa vì trong thời kỳ đó, hai con vật này được coi là thú vật của nhà vua; thịt chó vì dân chúng thường coi chó là con vật ghê tởm; thịt rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu vì người ta tin rằng ai ăn thịt những loài thú rừng nguy hiểm này sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể khiến cho các con vật đồng loại tấn công người đó để trả thù (Theo Ajahn Brahmavamso, What the Buddha said about eating meat?).

Mặt khác, Thế Tôn chủ trương rằng, sự khiếm khuyết về đạo đức, luân lý nơi mỗi cá nhân còn nghiêm trọng hơn là việc ăn thịt. Kinh Àmagandha (kinh Hôi thối, thuộc Kinh tập, Tiểu Bô I – Khuddhaka Nikàya) đã thuyết minh rõ ràng về quan điểm này. Trong kinh, một Bà la môn giữ giới trường trai đã đối diện với Ðức Phật Kassapa và chỉ trích những tội lỗi của việc sử dụng cá thịt. Phật Kassapa đã trả lời rằng, đồ ăn hôi thối (àmagandha) không phải là cá thịt mà chính là sự ô uế của thân tâm biểu hiện bằng 10 nghiệp bất thiện của thân, khẩu và ý. Chính sự cấu uế này đa hủy hoại tư cách đạo đức của một người chứ không phải vì ăn thịt cá: “Sát sanh và hành hình/Ðả thương và bắt trói/Trộm cắp và nói láo/Man trá và lừa đảo/Giả bộ kẻ học thức/Ði lại với vợ người/Ðây là đồ ăn thối/Ăn thịt không phải thối”. Kinh Àmagandha đã hé mở một chi tiết khá thú vị rằng có thể đây là văn bản đầu tiên trong kinh văn Phật giáo ghi chép về đối thoại giữa hai vấn đề ăn chay và ăn thịt, và theo Thế Tôn thì ăn uống không phải là vấn đề mà quan trọng là chuyển hóa và vun bồi thiện nghiệp.

Trở lại kinh Jivaka, sau khi xác định việc cho phép các Tỷ kheo sử dụng Tam tịnh nhục tức được ăn ba loại thịt thanh tịnh, Thế Tôn liền đề cập đến tâm Từ: “Này Jivaka, Tỷ kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn nào, vị ấy biến mãn một phương với tâm có lòng từ, và an trú; cũng vậy phương thứ hai, phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên dưới bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy biến mãn với tâm câu hữu với Từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân và an trú”. Ngay đây bộc lộ một vấn đề khá nhạy cảm vì rằng Không sát sinh luôn là quan điểm nhất quán và xuyên suốt trong toàn bộ giáo lý của Thế Tôn. Do đó, có thể nào một người ăn thịt (dù cho là tịnh nhục) và người ấy trong khi vẫn còn đầy tập khí, lậu hoặc mà khi thấy sinh vật ấy không khởi lên tưởng sát hại? Vì vậy, chỉ có an trú tâm câu hữu với Từ, biến mãn khắp mười phương và “thọ dụng các món ăn ấy, với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa, ý thức rõ rệt sự xuất ly” mới có thể không nghĩ đến tự hại, hay nghĩ đến hại người, hay nghĩ đến hại cả hai và dùng các món ăn không có lỗi lầm.

Một vấn đề khác cũng rất quan trọng được Thế Tôn thiết định trong kinh Jivaka rằng, dù các Tỷ kheo được ăn tịnh nhục nhưng không vì thế mà hàng Phật tử giết thịt sinh vật, nếu làm tổn hại chúng sanh sẽ mất công đức: “Này Jivaka, người nào vì Như Lai, hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công đức”. Và như thế, giải phap cho vấn đề Không giết hại là mua các nguyên liệu ở chợ về chế biến thành thực phẩm cúng dường chư Tăng là hợp lý nhất.

Việc Thế Tôn cho phép thọ dụng Tam tịnh nhục có thể xem là một giải pháp tối ưu đối với đời sống du hành khất thực của các Tỷ kheo. Quan trọng hơn, đối với sự nghiệp tu tập của hàng xuất gia, nhất là đối với Thiền Minh sát (Vipassanà) và sử dụng tịnh nhục có sự tương hệ thế nào? Quan điểm của Thiền sư U Pandita Sayadaw đã thể hiện tổng quan tinh thần chay tịnh của truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy: “Như vậy, không cần phải tự thúc buộc mình vào việc ăn chay khi thực hành Thiền Minh sát. Dĩ nhiên, có sự quân bình về rau trái và cá thịt se có lợi cho sức khỏe. Nếu bạn muốn ăn chay vì lòng từ bi thì đó cũng là một điều thiện. Mặt khác, nếu vì lý do sức khỏe, nhất là cần phải có những chất bổ dưỡng chỉ có trong thịt, cá thì cũng cần nên ăn cá, thịt. Không có vấn đề tội lỗi trong việc ăn cá thịt; ăn cá thịt cũng chẳng làm hại hay cản trở gì trong việc hành Thiền Minh sát…”.

Chúc các bạn tinh tấn!

Ngũ tịnh nhục nghĩa la gì

Tham khảo thêm:

Thần chú ban phước cho thịt, giải độc thức ăn, trừ tác hại hành tỏi

Vài dòng về Tam Tịnh Nhục, hay Ngũ Tịnh Nhục, hay cho rằng “Phật ăn thịt”

1. Phật vì muốn thoát khỏi khổ đau của sanh tử luân hồi mà từ bỏ ngai vị, vợ đẹp, côn xinh, cuộc sống sung sướng, chấp nhận tu khổ hạnh hòng mong cầu chân lý giải thoát.

2. Bài thuyết pháp đầu tiên của Phật là Tứ Diệu Đế. Trong đó, Khổ Đế là đầu tiên. Điều này có nghĩa Đức Phật nhận thức sâu sắc và triệt để về khổ đau của sanh tử.

3. Trước khi Đức Phật đến thế gian, Ngài là một vị Bồ Tát ở cung trời Đâu Suất. Nếu không vì muốn cứu khổ, thì Đức Phật đâu cần gian nan hóa kiếp ở cõi ta bà.

4. Phật thương chúng sanh như con, sẵn sàng vì cứu bồ câu mà cắt thịt cho ưng ăn. Phật vì chúng sanh mà hết mình bày ra các món pháp. Vậy, ai có thể ăn thịt người mình yêu quý? Có người nói Phật ăn thịt, dựa trên tam tịnh nhục hay ngũ tịnh nhục, vậy khác nào phỉ bán lòng tư bi của Phật, trí tuệ của Phật, nguyện lực của Phật. Người vì đại nguyện mà tái kiếp nơi Ta Bà, vì muốn thoát khổ mà tuyên vượt gian nan tìm đạo giải thoát, vì biết rõ khổ mà tuyên thuyết Tứ Đế, vì biết rõ nhân quả mà tuyên thuyết nhân quả. Kẻ nói Phật ăn thịt, thì đúng như câu nói: “Tin ta mà không hiểu ta tức là phỉ bán ta”.

5. Tam tịnh nhục hay ngũ tịnh nhục

Trong kinh Lăng nghiêm, có đoạn Đức Phật nói rằng:

– A Nan! Lại chúng sanh lục đạo trong thế giới, nếu tâm chẳng sát hại thì chẳng theo dòng sanh tử tương tục.

– Người tu chánh định, cốt để ra khỏi trần lao, nếu tâm sát hại chẳng trừ, thì chẳng thể ra khỏi, dẫu có nhiều trí thiền định hiện tiền, mà chẳng dứt sát hại, ắt phải lạc vào đạo quỷ thần. Hạng trên thành đại lực quỷ, hạng giữa thành phi hành dạ xoa và các loại quỷ soái, hạng dưới thành địa hành la sát. Các loài quỷ thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi tự xưng đã thành đạo vô thượng, sau khi ta diệt độ, trong đời mạt pháp, loại quỷ thần này sôi nổi trên thế gian, tự nói ăn thịt cũng được đạo Bồ Đề.

– A Nan! Sở dĩ ta tạm cho hàng Tỳ Kheo ăn Ngũ Tịnh Nhục, việc này đều do thần lực của ta hóa thành, vốn chẳng có sinh mạng. Vì xứ Bà La Môn đất đai phần nhiều ẩm ướt, lại thêm cát đá, rau cỏ chẳng sanh, nên ta dùng sức đại bi tạm thời hóa ra, giả danh là thịt, cho các ngươi được ăn. Nhưng tiếc thay, sau khi Như Lai diệt độ, người mang tên Phật tử lại ăn thịt chúng sanh!

– Các ngươi nên biết, những người ăn thịt, dù được khai ngộ tựa như Tam Ma Địa, nhưng đều là giống La Sát, khi hết phước báu, ắt phải chìm đắm trong biển khổ, chẳng phải đệ tử Phật. Những người như thế, giết nhau nuốt nhau, ăn nhau không thôi, làm sao được ra khỏi luân hồi!

– Ngươi dạy người đời tu Tam Ma Địa, phải dứt trừ sát sanh, ấy là lời dạy rõ ràng trong sạch, gọi là nghĩa quyết định thứ hai của chư Phật!

– A Nan! Nếu chẳng dứt sát hại mà tu thiền định, cũng như có người tự bịt lỗ tai, lớn tiếng kêu to mà mong người khác chẳng nghe, bọn này gọi là muốn giấu mà càng lộ. Hàng Tỳ Kheo trong sạch và chư Bồ Tát, đi trong đường tẻ còn chẳng dẫm trên cỏ, huống là nhổ cỏ. Làm sao người có lòng đại bi lại ăn thịt chúng sanh?

– Nếu Tỳ Kheo chẳng mặc tơ lụa, chẳng mang giày dép da cừu, chẳng ăn những tô lạc đề hồ… thuộc bộ phận thân thể của chúng sanh, thì Tỳ Kheo này nơi thế gian gọi là chơn giải thoát, khi nợ xưa trả sạch thì chẳng sanh vào tam giới. Tại sao? Vì dùng những bộ phận thân thể của chúng sanh để ăn mặc, thì phải trả nợ chúng sanh. Như người ăn lúa thóc từ đất mọc thì chân chẳng lìa đất. Cũng vậy, người mà đối với thân thể của chúng sanh đều chẳng ăn chẳng mặc, ta nói người này là chơn giải thoát.

(Kinh lăng nghiêm – Quyển 6 http://www.niemphat.com/kinhdien/kin…ngnghiem6.html)

Thật vậy, thế gian vốn không có loại thịt này. Thịt này vốn do thần lực Phật mà hóa ra.

Dẫu cho có thịt mà:

1. Mắt chẳng ngó thấy người ta giết
2. Tai chẳng ngó thấy người ta giết
3. Chẳng nghi là giết vì mình.

Như vậy chẳng phải thịt ngoài chợ cũng là tam tịnh nhục sao? Người mua đâu có thấy, nghe. Người giết cũng đâu biết ai đến mua, hay biết chắc được danh tánh người sẽ đến mua. Nhưng thật sự có cộng nghiệp. Người giết sẽ tạo nghiệp sát, người bán mua thịt ở lò sát sanh sẽ chịu cộng nghiệp với người giết, người mua cũng vậy. Vì sao, vì luật nhân quả cũng là cho – nhận. Người ta mua, thực chất là cho đi tiền và nhận về nghiệp chướng. Cũng như những người cúng dường cho Phật, cho đi thứ gì đó và nhận về phước báu tu hành của Phật. Vua A-Dục là một ví dụ, một đứa trẻ ném một nắm đất vào chén Đức Phật, rồi được tiên tri thành một vị vua vĩ đại. Tương tự như vậy, mối quan hệ nhân quả giữa người giết thịt, người bán thịt, người chế biến thịt và người ăn thịt là có thật. Không chỉ họ gieo mối oán thù đối với thú vật, mà chính họ cũng gieo oán thù với nhau. Vì có kẻ bán thì có người mua, ngược lại vì có kẻ mua mà có kẻ bán, vì có nhu cầu nên người ta mới giết thịt. Đó là một vòng lẫn quẩn oan oan tương báu và không có hồi kết.

Chỉ có trai tịnh là không như vậy. Người trồng (rau sạch, hữu cơ) và người bán thì thực hành chánh mạng, người mua thì giữ gìn nghiệp nơi thân. Cả hai đều đồng hưởng phước báu thiện lành. Mạng chung thì đồng sanh cõi lành.

6. Nếu bạn nói: Phật giáo tiểu thừa, phật giáo tại nước A, chổ B, chùa C không thực hành trai tịnh thì sao đây?. Thực sự thì tôi không muốn bàn về đều này, chỉ e là phạm khẩu nghiệp. Bạn chỉ cần hỏi mình một câu, bạn tu là vì mình hay vì người khác. Vì người khác đi con đường A, bạn cũng muốn đi theo. Vậy sao người ta khuyên bạn ăn chay, bạn không làm theo. Chẳng qua là bạn không muốn thực hành trai tịnh nên biện ra muôn ngàn lý do.

7. Nếu bạn nói: Có tổ ăn thịt, thánh ăn thịt, vậy là nghĩa lý gì? Bạn tin vào đức Phật, sao bạn không tin vào sự toàn vẹn, công bình của nhân quả. Họ phải trả báo nếu nó có liên quan đến việc tước đoạt sanh mạng kẻ khác. Nhưng trong kinh Duy Ma Cật có đoạn:

Bấy giờ Ngài văn Thù Sư Lợi hỏi ông Duy Ma Cật rằng :
– Bồ Tát thế nào là thông đạt Phật đạo ?
– Bồ Tát thật hành phi đạo(2) (trái đạo) là thông đạt Phật đạo.
– Lại hỏi : Thế nào là Bồ Tát thật hành Phi đạo ?
– Nếu Bồ Tát gây năm tội vô gián(3) mà không buồn giận, đến ở trong địa ngục mà không có tội cấu; đến trong loài súc sanh mà không có những lỗi vô minh kiêu mạn; đến trong ngạ quỉ mà vẫn đầy đủ công đức; đến cảnh Sắc và Vô Sắc giới mà không cho là thù thắng; hiện làm tham dục mà không nhiễm đắm; hiện làm giận dữ mà đối với chúng sanh không có ngại gì; hiện cách ngu si mà dùng trí tuệ điều phục tâm mình; hiện làm hạnh tham lam bỏn sẻn mà bỏ tất cả của cải, không tiếc thân mạng; hiện phá giới cấm mà ở trong tịnh giới, đến như tội bé nhỏ cũng hết lòng sợ sệt; hiện làm giận dũi mà thường từ bi, nhẫn nhục; hiện làm lười biếng mà siêng tu các công đức; hiện làm loạn ý mà thường niệm định; hiện làm ngu si mà thông đạt trí tuệ thế gian và xuất thế gian; hiện làm dua dối mà phương tiện thuận theo nghĩa các kinh; hiện làm kiêu mạn mà đối với chúng sanh mình cũng như cầu, đò(4); hiện làm tất cả phiền não mà lòng thường thanh tịnh; hiện vào trong chúng ma mà thuận theo trí tuệ của Phật, không theo đạo giáo khác; hiện làm hàng Thanh Văn mà nói các pháp chưa từng nghe cho chúng sanh; hiện vào hàng Bích Chi Phật mà thành tựu lòng đại bi, giáo hóa chúng sanh; hiện vào hạng nghèo nàn mà có tay đầy đủ của công đức; hiện vào hạng tàn tật mà đủ tướng tốt để trang nghiêm thân mình; hiện vào hạng hèn hạ mà sanh trong giòng giống Phật, đầy đủ các công đức; hiện vào hạng người ốm yếu xấu xa mà được thân Na-la-diên (kim cang), tất cả chúng sanh đều muốn xem; hiện vào hạng già bịnh mà đoạn hẳn gốc bịnh, không còn sợ chết; hiện làm hạng giàu có mà xem là vô thường, không có tham đắm; hiện có thê thiếp, thế nữ mà tránh xa bùn lầy ngũ dục; hiện nơi hạng đần độn mà thành tựu biện tài, vẫn giữ tổng trì; hiện vào tà tế(5) mà dùng chánh tế độ chúng sanh; hiện vào khắp các đạo, để đoạn dứt nhơn duyên; hiện vào Niết bàn mà không bỏ sanh tử. Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi ? Nếu Bồ Tát làm được những việc trái đạo như thế, đấy là thông suốt Phật đạo.

(Kinh Duy Ma Cật – Phẩm Phật Đạo)

Nghe qua thì vô lý. Nhưng cũng có câu, cảnh giới Bồ Tát thì A-lan-hán không thể hiểu được. Huống hồ người tu ở thế giới này, thường chỉ đến cõi thiên nhân là rơi vào thế bí. Do đó, đâu thể nào lấy lý lẽ của thiên nhân mà luận bàn hạnh của Bồ Tát. Nếu bạn nói rằng luật nhân quả có phân biệt, bồ tát không phải chịu nghiệp, thì bạn đã phỉ bán trí tuệ của Phật không sáng suốt, không thể hiểu tường nhân quả. Nói ra thì khó, chỉ nên hiểu là bất khả tư nghì. Nếu bạn muốn được như họ, vừa tu vừa phá giới, vậy sao không ráng tu thành bồ tát. Nhưng bạn biết đó, nếu bạn không có lòng từ bi, đừng mong chờ quả vị bồ tát.

8. Bạn cho rằng: Tu một số pháp môn (nào đó) không cần ăn chay, giữ giới sát. Nếu bạn nghĩ lực lượng của chư Phật là bất khả tư nghì, nhưng bạn nên nhớ Phật có tam bất năng. Nếu Địa Tạng Vương Bồ Tát có thể độ hết chúng sanh nơi địa ngục thì sao Ngài không làm điều đó từ đầu. Nếu Đức Phật có thể độ hết chúng sanh cõi Ta Bà khỏi đau khổ, vậy sao giờ vẫn còn chúng sanh trầm luân. Nếu bạn nhờ gia trì của Phật để giải thoát, bạn nên nhớ gia trì của Phật là thanh nhẹ, trong khi ác nghiệp nơi Thân – Khẩu – Ý là ô trược. Do vậy, nếu bạn không giữ giới luật, bạn khó có thể tiếp nhận được gia trì của Phật.

Tóm lại, không sát sanh nói riêng và giới luật nói chung là cần thiết cho quá trình tu tập của hành giả.

Vài dòng giải đáp nghi tình về tam (ngũ) tịnh nhục, xưa Phật thuyết kinh Pháp Hoa, những người không tin đều bước ra về, Phật cũng không cản họ.

Itdepx

Kinh Lăng Già – Quyển Sáu có đoạn nói về việc cho rằng “Như Lai cho phép ăn thịt”:

Bấy giờ Đại huệ Bồ tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng:

Bạch Thế tôn! Xin vì con nói các công đức và lỗi lầm của việc ăn thịt, không ăn thịt. Con cùng các Bồ tát biết nghĩa ấy rồi sẽ diễn nói cho chúng sinh ăn thịt ở hiện tại, vị lai bị các tập khí huân tập, và khiến họ bỏ vị thịt mà cầu vị pháp, đối với hết thảy mọi loài sinh lòng đại bi, thương như thương con một, ở địa vị Bồ tát, được vô thượng chính đẳng chính giác, hoặc tạm dừng ở nhị thừa rồi cuối cùng cũng thành vô thượng chính đẳng chính giác. Bạch Thế tôn! Những bọn Thế luận khởi kiến hữu vô, chấp trước đoạn, thường mà còn cấm không cho ăn thịt, huống hồ đức Như lai Ứng chính đẳng giác, đầy lòng đại bi, thế gian đều nương cậy, mà lại tự cho phép mình và kẻ khác ăn thịt hay sao. Hay thay! Đấng Thế tôn đầy đủ đại bi thương xót thế gian, thường xem chúng sinh như con một, nguyện xin Thế tôn giải nói cho con về những lỗi lầm và ác độc của sự ăn thịt và những công đức của sự kiêng thịt, khiến con cùng các Bồ tát nghe rồi phụng hành, rộng nói cho người.

Khi ấy Phật dạy Bồ tát Đại huệ rằng:

Đại huệ! Hãy nghe, và khéo suy nghĩ. Ta sẽ phân biệt rõ cho ông thấy. Đại huệ! Có vô số lý do khiến Bồ tát thương xót không ăn thịt, ta chỉ nói đôi phần. Đại huệ! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay không ngừng qua lại trong sinh tử luân hồi, không khỏi có lần làm cha mẹ anh em con cái lẫn nhau, hoặc làm bà con, bè bạn, đầy tớ thân yêu… Sang đời khác họ sinh làm thân chim và thú, sao nỡ đem ăn thịt? Đại huệ! Bồ tát đại hữu tình xem chúng sinh như thân mình, nghĩ rằng thịt đều do có mạng sống mà ra, làm sao nỡ ăn? Đại huệ! Bọn quỷ la sát v.v.. nghe ta nói thế này còn bỏ ăn thịt, huống hồ những người thích pháp. Đại huệ! Bồ tát đại hữu tình ở đâu cũng xem chúng sinh là thân thuộc, cho đến nghĩ như con một của mình, nên không ăn tất cả thịt. Đại huệ! những người bán thịt ở góc đường chợ búa hoặc lấy thịt chó ngựa người trâu bò v.v.. đem bán để cầu lợi, uế tạp như thế làm sao ăn được.

Đại huệ! Hết thảy các thứ thịt đều do máu huyết ô uế làm ra, người cầu trong sạch sao lại ăn dùng. Đại huệ! chúng sinh khi thấy những người ăn thịt thì sợ hãi, kẻ tu từ tâm sao lại ăn thịt. Đại huệ! Những thợ săn, Chiên đà la (Càndàla), những người bắt cá, lưới chim, chó thấy thì sủa, thú vật thấy thì bỏ chạy. Tất cả chúng sinh bay trên không chạy trên đất, sống dưới nước, trông thấy những người kia đều nghĩ : “Tên ấy trông như quỷ la sát, nay đến đây chắc để giết mình.” Vì lo giữ mạng sống nên chúng đều chạy tránh. Người ăn thịt cũng vậy. Cho nên Bồ tát vì tu hạnh từ không nên ăn thịt. Đại huệ ! Người ăn thịt thì thân thể hôi hám dơ bẩn, tiếng ác truyền khắp, hiền thánh, người tốt không thân gần, do vậy Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! Máu thịt là thứ mà tiên thánh không dùng, nên Bồ tát không ăn thịt. Đại huệ! Lại vì muốn gìn giữ tín tâm của chúng sinh, không để họ chê bai nhạo báng Phật pháp, nên Bồ tát không ăn thịt. Đại huệ! Nếu đệ tử ta ăn thịt, thì người đời sẽ ôm lòng chê bai, nói: “Sa môn tịnh hạnh sao lại từ bỏ vị ăn của chư thiên mà cư xử như ác thú, ăn thịt đầy bụng đi khắp thế gian, khiến chúng sinh cầm thú hoảng sợ, phá hạnh thanh tịnh, lỗi đạo sa môn? Xem đấy đủ biết Phật pháp không có hạnh điều phục.” Bồ tát thương chúng sinh, muốn giữ cho họ khỏi sinh tâm ấy, nên không ăn thịt. Đại huệ! Khi thịt người cháy thì hơi hôi xông lên, các thứ thịt nướng khác cũng vậy. Cũng cùng là thịt, sao lại có thứ ăn, có thứ không ăn. Cho nên những người vui đạo thanh tịnh không nên ăn thịt. Đại huệ! Các nam nữ thiện tín tu hành thanh tịnh ở dưới cây hay nơi vắng vẻ để an trú tâm từ, trì chú cầu giải thoát, hoặc cầu pháp Đại thừa, nhưng vì ăn thịt mà không đạt được các mục đích trên. Bởi thế Bồ tát muốn lợi mình lợi người không nên ăn thịt. Đại huệ! Người ăn thịt khi trông thấy thịt liền sinh lòng tham ăn ngon. Bồ tát thương nghĩ hết thảy chúng sinh như thân mình, làm sao thấy thịt mà nghĩ đến chuyện ăn được? Vì thế Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! Lại người ăn thịt thì chư thiên xa lánh, hơi miệng thường hôi, ngủ mộng bất an, tỉnh dậy lo sợ, bị ác quỷ dạ xoa hút mất tinh khí, lòng nhiều hoảng sợ, ăn không biết đủ, tăng trưởng bệnh, dễ sinh ghẻ lở, mụt nhọt, thường bị vi trùng đục khoét, không thể sinh tâm chán ghét muốn xa lìa thịt. Đại huệ! Ta thường nói : “Tỳ kheo ăn cái gì cũng nên nghĩ như ăn thịt con.” Các thức ăn khác còn thế, thì sao ta lại cho phép đệ tử ăn thịt được? Đại huệ! Thịt không tốt đẹp, không sạch, làm sinh các tội ác, phá hoại các công đức, bị chư thiên, thánh nhân xa lìa, sao ta lại cho phép đệ tử ăn thịt? Kẻ nào nói ta thuận cho ăn thịt chính là phỉ báng ta vậy. Đại huệ! Thức ăn sạch là lúa gạo, đậu, đại mạch, tiểu mạch, dầu mè, ván sữa, đường. Những loại như thế đều được chư Phật quá khứ cho phép ăn. Những thứ nên ăn ta nói đây là để cho những thiện nam tín nữ trong dòng họ ta, những kẻ có đức tin thanh tịnh, đã trồng căn lành từ lâu đời, không tham trước thân mạng tài sản, xót thương hết thảy như chính thân mình. Ta nói những vật nên ăn cho những người như vậy, chứ không phải cho những kẻ có thói quen độc ác, tính như hổ lang, lòng nặng dục vọng.

Đại huệ! Xưa có quốc vương tên Sư tử sinh (Simhasaydàsa), ưa mùi vị thịt, ăn đủ thứ thịt đến cả thịt người, thần dân không chịu nỗi nên làm phản. Cuối cùng vua phải mất nước, chịu khổ não lớn. Đại huệ! Thích đề hoàn nhân đã ở địa vị vua trời, do tập khí ăn thịt đời trước còn lại, nên biến làm chim ưng săn đuổi một con bồ câu. Ta lúc ấy làm vua tên Thi tỳ (Sivin), thương xót bồ câu nên tự cắt thịt mình để thế mạng cho nó.

Đại huệ! Tập khí còn lại của Đế thích còn làm khổ chúng sinh, huống gì những kẻ ăn thịt thường xuyên không biết hổ thẹn. Ăn thịt đã tự hại còn hại người, vì thế Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! xưa có ông vua cỡi ngựa đi săn, ngựa sợ chạy vào núi hiểm, chốn không người ở, cũng không có lối ra. Vua gặp một sư tử cái cùng nó hành dâm sinh nhiều con. Trong số con có một trưởng giả rất giàu có tên Ban túc, về sau làm vua thống lĩnh 7 ức nhà, vì quen thói ăn thịt nên không phải thịt thì không ăn. Ban đầu ăn thú vật sau đến ăn người, sinh con trai con gái đều là quỷ la sát, chết tái sinh làm sư tử, sài lang, cọp beo, chim điêu, chim thứu v.v.. muốn cầu được thân người còn không được, nói gì đến cầu thoát sinh tử đạt Niết bàn. Đại huệ! Ăn thịt có vô lượng lỗi lầm tai hại như thế, nên chấm dứt ăn thịt sẽ được công đức lớn. Kẻ phàm ngu không biết những tổn hại của sự ăn thịt và lợi ích của không ăn. Bởi thế nay ta vì ngươi mà nói rõ. Bất cứ cái gì là thịt đều không nên ăn. Đại huệ ! Người ta sát sinh phần lớn là do có người ăn thịt, nếu không người ăn thì cũng không có việc giết; bởi thế ăn thịt cũng có tội như giết. Quái lạ cho người đời tham đắm vị thịt, thịt người còn ăn huống là thịt chim thú. Vì tham ăn ngon, chúng đặt ra đủ cách giăng lưới bày bẫy khắp nơi, loài dưới nước, loài ở trên đất, loài bay trên không đều bị giết hại, nếu không tự mình ăn thì cũng đem bán để lấy tiền.

Đại huệ ! Thế gian có những kẻ không lòng thương xót, chuyên làm việc tàn bạo như quỷ la sát; khi thấy chúng sinh thân hình béo tốt là nghĩ đến thịt, và bảo “Con vật này ăn được đấy.” Đại huệ ! Thế gian không có thứ thịt nào không do mình giết hay người giết, lòng mình không nghi là nó bị giết (để có thể ăn được.) Do nghĩa này mà ta cho phép thanh văn ăn thứ thịt như thế. Đại huệ ! Đời sau có những kẻ ngu si xuất gia trong pháp luật của ta, giảng quấy giới luật, làm loạn chính giáo, phỉ báng ta với lời nói ta cho phép ăn thịt và chính ta cũng đã từng ăn. Đại huệ ! Nếu ta cho phép thanh văn ăn thịt, tức ta không phải người an trú tâm từ, người tu quán hạnh, người hành đầu đà, người đi nơi đại thừa; làm sao có thể khuyên thiện nam tín nữ nên xem chúng sinh như con một, nên dứt ăn tất cả thịt? Đại huệ! Có chỗ ta nói cho ăn ba thứ tịnh nhục, đấy là để dần dần cấm hẳn, khiến dễ tu học. Nay trong kinh này, tất cả thịt của con vật tự chết hay bị giết, đều không được ăn. Đại huệ ! Ta chưa bao giờ cho phép đệ tử ăn thịt, cũng không đang cho phép, cũng không sẽ cho phép.

Đại huệ ! Tất cả sự ăn thịt đối với người xuất gia đều là bất tịnh.

Đại huệ ! Nếu có kẻ ngu si phỉ báng ta bằng cách nói Như lai cho phép ăn thịt và chính Như lai cũng đã có ăn, nên biết kẻ ấy bị ác nghiệp buộc ràng, sẽ bị đọa vào những chỗ không lợi lạc. Đại huệ ! Các thánh đệ tử còn không ăn những thứ đoàn thực của phàm phu, huống gì thịt vốn là thức ăn dơ uế. Đại huệ ! Thanh văn duyên giác bồ tát còn chỉ ăn pháp thực (dharmàhàra) huống gì Như lai. Đại huệ ! Pháp thân Như lai không phải là thân ô tạp. Như lai đã dứt trừ hết phiền não, tẩy sạch hết tập khí, khéo thanh lọc tâm tuệ, đại bi bình đẳng quán khắp chúng sinh như con một; há lại cho phép đệ tử thanh văn ăn thịt con ta sao? Huống nữa là tự ta ăn. Nói như vậy là chuyện không có.

aptruong: Phật ở trong tâm chúng ta. Nếu ta cảm thấy vui vẻ hạnh phúc khi làm một điều tốt theo con đường đức Phật thì ta sẽ không còn băn khoăn tranh luận vô ích.
Với bản thân tôi, ăn chay để giảm sát sanh và tập cho Tâm mình không để bị ham muốn phân biệt trong việc ăn uống. Tôi cảm thấy hạnh phúc về điều đó và chắc chắn rằng vị Phật trong Tâm mình cũng hoan hỉ.
Vậy là đủ cho quyết định của mình.

Tham khảo: Diễn đàn Thegioivohinh.com

Bạn đọc tìm kiếm:

  • https://xn---hay-uqa vn/tam-ngu-tinh-nhuc-thit-thanh-tinh/ (3)