Lý bạch tên thật là gì

1. Tiểu sử

- Lí Bạch (701-762), nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc đời Đường, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, quê ở Tam Cúc.

- Lúc mới năm tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn thường coi Tứ Xuyên là quê hương của mình.

- Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu dân giúp đời song ông chưa bao giờ được toại nguyện.

- Lí Bạch được mệnh danh là “tiên thơ”.

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép lại. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...

b. Phong cách nghệ thuật

- Đặc điểm thơ Lí Bạch:

   + Biểu hiện một tâm hồn tự do, hào phóng

   + Hình ảnh thơ thường mang tính chất tươi sáng, kì vĩ

   + Ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện

   + Ông thường viết rất hay về chiến tranh, thiên nhiên, tình yêu và tình bạn.

Sơ đồ tư duy về tác giả Lí Bạch:

Lý bạch tên thật là gì

HocTot.Nam.Name.Vn

 Giới thiệu về nhà thơ Lý Bạch
Tác giả : Lương Duy Thứ được trích từ " Đại cương văn hóa phương đông "
Lý Bạch (701 - 762)
Tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh,
nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ - tức Lũng Tây ngày xưa).
Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca
múa. Lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thụy 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My
ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua Hồ Động Đình, lên Sơn Tây Sơn Đông cùng
năm người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê
lục dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh
Hoàng, ông về kinh đô Tràng An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự
dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn "vong
niên" (bạn "quên tuổi tác", không coi trọng tuổi tác - Đỗ Phủ nhỏ hơn Lý Bạch 11 tuổi). Họ cùng
Cao Thích vui chôi, thưởng trăng ngắm hoa, san bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia
tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền
năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung
linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện
Đăng Đồ (An Huy) là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên
(ông tiên trong làng thơ), Trích tiên (tiên giáng trần), Tửu trung tiên (ông tiên trong làng
rượu)...
Khi ông mất, Lý Đăng Dương sưu tầm thơ ông. Theo đó thì nhà thơ làm khoảng 20,000 bài,
nhưng ông không để tâm cất giữ nên nay chỉ còn khoảng 1,800 bài.
Thơ ông viết về mọi đủ mọi đề tài: vịnh cảnh, thưởng hoa, tình bạn, nỗi khổ đau của người dân,
nỗi cay đắng của người vợ trẻ xa chồng (chinh phụ, thương phụ), của người cung nữ, nỗi cô đơn
và bất lực trước vũ trụ vô cùng vô tận, nỗi cay đắng vì có tài mà không được dùng... Đề tài nào
cũng có những bài tuyệt tác.
Đất nước Trung Hoa hiện lên tráng lệ dưới ngòi bút của ông. Sông Hoàng Hà cuồn cuộn chảy
ra biển đông như một lực sĩ:
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi
(Trương Tiến Tửu)

(Há chẳng thấy nước Hoàng Hà từ trời đổ xuống
Chảy tuột biển Đông chẳng quay về)
(Hãy cạn chén)
Sông Dương Tử (tức Trường Giang) đi vào thơ ông như giải lụa thắt ngang trời:

Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu
Yên hoa giang nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời
(tại lầu Hoàng Hạc tiễn bạn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng)
Thác Hương Lô được miêu tả như sông Ngân Hà tuột khỏi mây:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên.
Phi lưu trực há tam thiên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Vọng Lư Sơn Bộc Bố)
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này :
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Xa ngắm thác Hương Lô)
Tả cảnh thiên nhiên mà tráng lệ như thế, rõ ràng tác giả đã yêu quê hương, đất nước biết
nhường nào. Lòng yêu nước ở Lý Bạch chính là bắt nguồn từ lòng yêu sông núi quê hương vậy.
Bài tứ tuyệt thể hiện nỗi lòng nhớ quê hương da diết của ông là bài Tĩnh dạ tư (Trăn trở trong

đêm thanh vắng), một bài thơ mà không người Trung Quốc tha phương cầu thực nào không
thuộc lòng:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sơn.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tương Như dịch)
Chính vì lòng yêu quê hương, đất nước mà Lý Bạch có lòng đồng cảm sâu sắc với số phận của

nhân dân - những người chăm bón vun trồng cho vườn hoa đất nước. Nếu Đỗ Phủ do u65c đời
chìm ngập trong khói lửa loạn ly, do cảm hứng trách nhiệm của một nhà Nho mà chủ yếu nói
đến số phận đẫm máu và nước mắt của nhân dân thì Lý Bạch do sống chủ yếu trong thời thịnh
vượng của nhà Đường, lại do khát khao cái đẹp, cái bay bổng diệu kỳ của một nhà thơ lãng mạn
mà ca ng75i vẻ đẹp của người phụ nữ và nói đến những trăn trở thầm kín của họ. Bất kể đối
tượng xã hội nào, nếu là người đẹp, một vẻ đẹp đầy nữ tính đều tạo nên nguồn cảm hứng mạnh
cho nhà thơ. Bài "Thái liên khúc" (khúc hát hái sen) miêu tả cô gái hái sen thoắt ẩn thoắt hiện
giữa một không gian đầy hoa, hoa trên đầm sen, hoa dưới nước. Mấy cô thôn nữ đã hiện về như
những nàng tiên giáng trần. Ba bài Thanh bình điệu" tả vẻ đẹp của nàng Dương quý phi thật mê
hồn. Nhưng điều cần nói là trong mắt Lý Bạch, Dương quý phi không hiện lên với vẻ đẹp kiêu sa
của một cung phi mà chỉ là một người đẹp trong suốt và ẻo lả. Ta nhớ lời thơ của ông:
Nước trong sẽ nở hoa sen
Thiên nhiên là đẹp chớ nên vẽ vời
Bởi vậy, lòng đồng cảm của ông dành cho phụ nữ là lòng đồng cảm với phái đẹp và cũng là phái
yếu. Ông hiểu thấu nỗi trăn trở đầy nữ tính của họ. Bài "Xuân tứ" nói đến nỗi tê tái của người
vợ trẻ có chồng tiễn biệt nơi biên cương:

Cỏ Yên vừa nhú tơ xanh
Dâu Tần đã rũ lá cành xum xuê
Khi chàng tưởng nhớ ngày về,
Chính là lúc thiếp tái tê cõi lòng
Gió xuân đâu biết cho cùng,
Cớ chi len lỏi vào trong màn là?
(Cảm xúc mùa xuân)
Cái cảm xúc "gió động màn" của người vợ trẻ phòng không gối chiếc ấy, chỉ có người trong
cuộc mới có. Chứng tỏ nhà thơ am hiểu sâu sắc nhân vật trữ tình của mình. Cũng như vậy, Tý dạ
Ngô Ca nói đến nỗi niềm của người phụ nữ giặt áo bông khi gió heo may về để kịp gửi cho
người chinh chiến phương xa. Trường can hành nói đến nỗi sầu bi của người thương phụ, chồng
đi xa, lại vì đồng tiền lời mà coi khinh ly biệt (Thương nhân trọng lợi khinh ly biệt). Ngọc giai
oán, Vương Chiêu Quân... lại bày tỏ nỗi lòng đồng cảm với cung nữ...
Tóm lại chủ nghĩa nhân đạo ở mỗi nhà thơ lại có biểu hiện khác nhau. Ở Lý Bạch, một nhà thơ
phóng khoáng bay bổng, ít chịu ảnh hưởng cho Nho gia mà nhiều hơn là Đạo gia và Du hiệp, thì
lòng đồng cảm với cái đẹp, sự xót xa trước cái đẹp bị vùi dập, bị chà đạp lại là biểu hiện chủ yếu
của chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ.
Nhưng trong xã hội xưa, chò dù vào thời kỳ thịnh vượng nhất của nhà Đường, bất công ngang
trái vẫn là hiện tượng phổ biến. Bất công ấy đổ lên đầu nhà thơ. Ông ôm ấp chí lớn, muốn làm
"con cá vắt ngang biển" (hoành hải ngư), muốn "chém sạch cá kình cá nghê, khơi trong dòng
Lạc Thủy (Tặng Trương Tương Cảo), nhưng ông không khỏi thất vọng. Ông nói: "Tôi vốn không
bỏ đời mà đời bỏ tôi). Có tài mà không được dùng, có chí mà không nơi thi thố, tâm hồn đa cảm
mà bất lực trước xã hội. Điều đó tạo nên những vần thơ u uẩn bất đắc chí của ông. Hàng loạt
bài như Hành lộ nan (Đường đời khó khăn), Trương tiến tửu (Hãy cạn chén), Nguyệt hạ độc

chước 2 bài (Một mình uống rượu dưới trăng) đã bộc bạch tâm sự ấy. Có lúc ông mượn rượu để
giải sầu:
Đời người đắc ý cứ say đi
Trăng suông chén trống để mà chi

Nhưng rồi cái buồn vẫn đeo đẳng, biến thành phẫn uất:
Rút dao chém nước, nước vẫn chảy
Cất chén tiêu sầu, sầu vẫn sầu
Trăng và rượu, tiên và kiếm kết hợp trong tâm tư đầy mâu thuẫn của nhà thơ. Thực trạng ấy
khiến có lúc ông buông thả, hành lạc, nhưng chung quy vẫn là tinh thần tiến thủ, vì cái đẹp, vì
cuộc sống vẫn quán xuyến tư tưởng nhà thơ.
Ở Việt Nam, tứ thơ mạnh mẽ, say mê của Lý Bạch ảnh hưởng nhiều đến Chinh phụ ngâm, thơ
Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ. Nhưng cũng không ít người chịu ảnh hưởng mặt buông thả,
hành lạc trong thơ ông, tiêu biểu là Vũ Hoàng Chương.
Mắt nào em ném trao anh
Dao cau bổ dọc toang mành trời đêm
Môi nào rót mật ...say mềm
Mà giờ rơi rớt ... bên thềm lắt lay
Vũ Anh Vũ
blog của tôi
Trả lời ngay kèm theo trích dẫn này
 11-04-2007 02:21 PM #2
An Vu
Chim già hay hát
Gia nhập
Sep 2006
Bài gởi
882

Trả lời: Lý Bạch _ Thơ
Thân thế và sự nghiệp Lý Bạch
Được trích từ " Đường thi nhất thiên thủ " của Lê Nguyễn Lưu
Thân thế và quá trình sáng tác

Tuổi trẻ du hiệp

Lý Bạch sinh năm 701, mất năm 762, tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, là một nhà thơ lớn
thời Thịnh Đường, cùng tuổi với Vương Duy, hơn Đỗ Phủ 12 tuổi. Theo lời tự bạch của ông thì
ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng đời Hán và là cháu chín đời của họ Lương Vũ Chiêu
vương. Khoảng năm 670, cuối Tùy, ông thân sinh vì một cớ nào đó không rõ phải trốn sang Tây
Vực, sau lấy vợ là người bản xứ (gọi là Man bà) và sinh ra ông vào năm Vũ Hậu cướp ngôi nhà
Đường. Vì vậy Lý Bạch không những biết chữ Tây Vực mà ông còn kế thừa tính cách phóng
khoáng tự nhiên của người Tây Vực. Đến khi Vũ Hậu sụp đổ, gia đình ông rời Tây Vực về ngụ
tại làng Thanh Liên, huyện Chương Minh thuộc huyện Miên Châu xứ Ba Thục (nay là huyện
Miên Dương, tỉnh Tứ Xuyên) và ông coi đây là quê hương chính thức của mình.
Lý Bạch ra đời năm đầu Trường An (701). Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy sao Trường
Canh rơi vào mình và có thai rồi sinh ra ông, nên ông mới lấy tên tự là Thái Bạch (tức sao
Trường Canh). Lý Bạch rất thông minh đĩnh ngộ, lên năm tuổi đã biết đọc Lục giáp, mười tuổi
thì thong hiểu thi thư, thường xem them sách bách gia chư tử. Năm mười lăm tuổi, ông lại thích
và rèn kiếm thuật. Ông múa gươm giỏi và đẹp, thường ước mong làm trang hiệp khách với hào
khí “giữa đường dẫu thấy bất bằng chẳng tha”. Thời này ông hay viết những bài phú mô phỏng
cổ nhân như “Thư gửi Hàn Kinh Châu”, “Phú ngạo Tư Mã Tương Như”. Học giỏi, có tài,
nhưng ông không để chí vào đường khoa danh. Năm 16 tuổi (716), ông cùng Đông Nham Tử đi
ẩn tại phía nam núi Dân. Lúc 20 tuổi bắt đầu sống cuộc đời hiệp khách.
Lý Bạch đi du lịch khắp nơi : viếng Thành Đô, thăm núi Nga Mi, Thanh Thành, rong chơi hồ
Động Đình, lưu vực Tương giang, Hán giang, qua Giang Hạ đến Kim Lăng, Dương Châu, Nhữ
Hải, vào Ngô Việt…Năm 726, ông đến An Lục (nay thuộc Hồ Bắc), thăm đầm Vân Mộng. Tại
đây ông cưới vợ là cháu gái quan tể tướng hồi hưu Hứa Ngữ Sư, rồi tạm dừng chân phiêu lãng
và bắt đầu nổi tiếng văn chương giữa tuổi 30.
Nhưng không ở yên được lâu, Lý Bạch đến Tương Dương, làm quen với nhà thơ Mạnh Hạo
Nhiên, người lớn hơn ông 10 tuổi. Từ đó ông tha thiết muốn được hoạt động “kinh bang tế thế”.
Lý tưởng của ông là “làm rõ lời bàn của Quản Trọng, Án Anh, tính mưu chước của đế vương,
đem tài năng, trí tuệ nguyện giúp nhà vua để cho thiên hạ yên ổn, bốn bể thanh bình” (Đại Thọ
sơn đáp Mạnh thiếu phủ di văn). Nhưng ông thường tự phụ, ví mình với Lã Vọng, Trương

Lương, Gia Cát Lượng, thái độ “không chịu khom mình”, “không cầu cạnh ai”, “giao thiệp
ngang hàng với chư hầu” nên ông không được giới chính trị hoan nghênh. Năm 741, ông đưa
gia quyến đến ở Duyện Châu (Sơn Đông). Thơ ông đã đạt đến độ chin muồi, mang đầy đủ cái
cao rộng của thiên nhiên, cái phóng khoáng của tự do, cái phong độ ngang tàng của hiệp khách.

Trường An dừng bước (742-744)

Năm đầu Thiên Bảo (742), Lý Bạch rời nhà xuống miền nam, đi chơi Cối Kê (Chiết Giang), ngụ
tại Thiểm Trung với đạo sĩ Ngô Quân. Ngô Quân được vua triệu về kinh, đem Lý Bạch theo. Ông
phấn khởi cho rằng có thể thực hiện được lý tưởng chính trị của mình, nên “Ngửa mặt cả cười
ra khỏi cửa, bọn mình đâu phải sống lều tranh” (Nam Lăng biệt nhi đồng nhập kinh). Hạ Tri

Chương gặp ông, nói : “Đó là một trích tiên giáng trần”. Vì vậy, người ta thường gọi ông là
Trích Tiên (ông tiên bị đày xuống trần). Hạ tiến cử ông, vua Huyền Tông vời vào bệ kiến. Tương
truyền thấy ông thần khí cao lãng, phong thái nhẹ nhàng như ráng mây, vua bất giác quên mình
là đấng chí tôn, bước xuống thềm đón. Nhân vua ban giày mới, ông giơ chân cho thái giám Cao
Lực Sĩ thay (Đoàn Thành Thúc, Dậu dương tạp trở). Vua mến tài, cho ông vào điện Kim Loan,
phụ trách việc thảo thư từ.
Bấy giờ ngoài Hạ Tri Chương, ông còn kết bạn với Thôi Tông Chi, Vương Tiến, Tô Tấn, Trương
Húc, Tiêu Toại, Lý Thích Chi, gọi là “Tửu trung bát tiên”. Thời kỳ này ở kinh đô là thời kỳ quý
hiển nhất của ông trên con đường công danh.
Năm 744, nhân một ngày hoa nở đẹp, Đường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi ra thưởng
ngoạn mẫu đơn ở vườn ngự, sai đội nhạc ca hát. Muốn làm vui long người đẹp, vua triệu Lý
Bạch vào làm tân từ cho nhạc. Vẫn đang say, ông viết luôn ba bài Thanh bình điệu, vua và phi
nghe hát rất thích. Nhưng Cao Lực Sĩ vốn giận ông việc thay giày khi trước, đem hai câu thơ
trong bài ra dèm là ông ví Dương Quý Phi với Triệu Phi Yến, cung nhân đời Hán, xuất thân hạ
tiện, sau bị thất sủng. Vì thế, Quý Phi giận, đôi lần vua muốn thăng chức cho ông nàng đều ngăn
trở...
Đường Huyền Tông lúc này không còn là một ông vua anh minh chú ý đến việc trị nước nữa,

giao hết chính sự cho bọn gian thần Lý Lâm Phủ, còn mình chỉ truy hoan hưởng lạc. Lý Bạch
chẳng qua cũng chỉ là một thứ “văn nhân ngự dụng” mà thôi. Ông bất bình vì không ai hiểu chí
mình, căm phẫn cho cảnh “cát lẫn hòn ngọc sang, cỏ lấn chồi hoa thơm”, “ngọc trắng nào có
tội, ruồi xanh lại vu oan”. Với bản chất phóng túng, ghét cảnh mũ áo rang buộc, không muốn
“uốn lưng cúi mày thờ phụng bọn quyền quý”, lại them nhận thức rõ rang về sự hủ bại, thối nát
qua mấy năm tiếp xúc, ông từ quan xin về. Đường Minh Hoàng tặng nhiều vàng bạc. Ông rời
kinh đô và tiếp tục đời sống giang hồ lãng tử, để cho thơ tung cánh giữa đất nước bao la.
Lão niên phiêu bạt (745-762)

Từ giã Trường An, Lý Bạch đến Lạc Dương gặp Đỗ Phủ (744) rồi gặp Cao Thích ở Biện Châu.
Ba nhà thơ cùng đi chơi với nhau mấy tháng trời. Sau khi từ biệt Đỗ Phủ tại quận Lỗ, Duyện
Châu (Sơn Đông), Lý Bạch lại đi du lịch các nơi. Có lẽ không nhà thơ nào trải bước chân khắp
đất nước như ông, ngay cả Đỗ Phủ cũng không sánh được, hẳn chẳng chịu nhường Tư Mã
Thiên. Phía Bắc ông lên Triệu, Ngụy, Tề; phía tây qua Bân, Ký, Thương, U; phía nam ông đặt
chân đến song Hoài, sông Tứ, xuống tận Cối Kê...Tháng 11 năm 755, An Lộc Sơn khởi binh làm
loạn, chống triều đình, gây tàn phá chết choc vùng phía bắc Trường Giang. Lý Bạch liền vào Lư
Sơn, ở ẩn tại Bình Phong Điệp.
Nhưng cuộc đời nhà thơ bỗng gặp cơn ba đào. Nguyên năm 756, Túc Tông lên ngôi. Bấy giờ
Vĩnh vương Lý Lân là con thứ 16 của Đường Minh Hoàng đang làm Kinh Châu đại đô đốc, tiết
độ sứ cai quản Sơn Đông nam lộ, Lĩnh Nam kiềm trung, Giang Nam tây lộ. Lân giương ngọn cờ
dẹp loạn An Lộc Sơn, mời Lý Bạch ra làm việc tại phủ đô đốc. Giữa Túc Tông và Lý Lân vốn đã
có mối bất hòa, Lân liền có chí độc lập. Năm 757, Túc Tông cất quân đánh Lý Lân. Lân thua ở
Đan Dương, bị giết chết. Lý Bạch chạy sang Bành Trạch, Túc Tùng, bị bắt giam tại ngục Tầm
Dương. Tuyên úy đại sứ Thôi Chi Hoán và Ngự sử trung thừ Trương Nhược Tư cố sức xin tha
cho ông. Nhược Tư đem quân đến Hà Nam phóng thích Lý Bạch, cử làm tham mưu quân sự,

dâng thư lên vua nhưng không được xét. Lý Bạch vẫn bị kết án phản nghịch và khép tội tử hình.
Quách Tử Nghi bấy giờ làm tể tướng, nhớ ơn xưa, xin giải chức chuộc tội cho ông vua mới tha
chết, giảm án xuống đi đày.

Năm 758, Lý Bạch bị phát vãng đi Dạ Lang (nay huyện Đồng Tử, Qùy Châu), đi qua Động Đình,
Tam Giáp. Đỗ Phủ ở huyện Thiên Thủy, Tần Châu nghe tin vô cùng thương xót, làm nhiều bài
thơ nhớ ông (Mộng Lý Bạch, Thiên mạt hoài Lý Bạch, Bất kiến…). Năm sau, 759, trên đường tới
Dạ Lang, ông được tha tại Vu Sơn, bèn đi xuống miền đông tới Hán Dương. Năm 760 ông đến
Tri Châu An Khánh, rồi năm 761, sống cuộc đời phóng đãng tại Kim Lăng, Tuyên Thành, Lịch
Dương. Năm 762, ông ở nhờ nhà người bà con là Lý Dương Băng đang làm chức huyện lệnh
Đang Đồ (An Huy). Tháng tư, Đại Tông mới lên ngôi, có ý vời ông vào triều làm chức thập di.
Bấy giờ loạn An Sử vẫn còn, nhiệt tình yêu nước và ý chí hoạt động chính trị lại bung cháy, ông
dâng thư xin gia nhập đoàn quân dẹp loạn, được chuẩn y. Nhưng đến Kim Lăng, ông ngã bệnh
phải trở về và mất vào tháng 11 năm ấy. Đỗ Phủ, Vương Định Bảo và Hồng Dung Trai nói Lý
Bạch chết đuối tại sông Thái Thạch, huyện Đang Đồ. Tương truyền ông uống rượu say, cúi
xuống bắt bóng trăng dưới nước nên ngã chết. Nhân đó người ta xây bên sông một cái đình, đặt
tên là Tróc Nguyệt đình. Lý Bạch có bốn người vợ, ba con trai và một con gái.
Sau khi Lý Bạch mất, Dương Băng thu thập thơ ông, thấy chỉ còn lại chừng một phần mười, vì
ông thường làm rồi quên, không bao giờ có ý giữ gìn và truyền bá thơ mình. Vả lại thơ ông
“vương vãi” khắp nơi trên một địa bàn rộng mênh mông, gây khó khăn lớn cho người sưu tập.
Mãi đến năm 1080, Sung Ming Chiu mới gom góp được 1800 bài (trong số trên hai chục nghìn
bài của ông) làm thành Lý Bạch thi tập.
Thành tựu thơ ca của Lý Bạch
Quan niệm về thơ ca

Thành tựu thơ ca của Lý Bạch vượt quá cống hiến về lý luận. Hay nói cho đúng, ông chỉ sang
tác chứ không lý luận. Tuy nhiên, qua thơ ca của ông, chúng ta có thể thoáng thấy quan niệm
làm thơ của ông là theo phương châm “kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân”. Sau Trần Tử
Ngang, Lý Bạch đã tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đó. Ông nói : “Từ Trần, Lương
trở lại nay, [thơ] trở thành cực kỳ diêm dúa và nông cạn; Thẩm Hữu Văn (tức Thẩm Ước) lại tôn
sung thanh luật, người phục hồi không phải là ta thì còn ai nữa ?” (Mạnh Khởi, Bản sự thi –
Cao dật đệ tam).
Tinh thần sáng tạo cách tân của ông còn thể hiện đột xuất trong bài Cổ phong : “Học nhăn cô
khỉ non, làm cả xóm hết hồn. Thọ Lăng mất điệu cũ, mỉa chết khách Hàm Đan.”. Ông châm

biếm những kẻ giáo điều, nô lệ cổ nhân trong văn học. Chính vì có tinh thần sang tạo cách tân
bồng bột như thế, Lý Bạch mới có cái khí vượt cổ nhân. “Làm phú hơn cả Tương Như, Cửu Kinh
đánh đổ họ Khuất, vườn Lương đè hẳn họ Trâu, họ Mai”. Ông cũng như Đỗ Phủ, không bao giờ
chịu quỳ gối trước cổ nhân, trái lại, muốn làm cho cổ nhân phải thua mình.
Tuy nhiên Lý Bạch không phải là người kiêu căng tự phụ, chối bỏ tất cả. Ngược lại, ông ra sức
học tập Nhạc phủ Hán, Ngụy, Lục triều, dân ca đương thời và khiêm tốn kế thừa tinh hoa nghệ
thuật của Nguyễn Tịch, Đào Tiềm, Tạ Linh Vận, Tạ Diểu, Bảo Chiếu, Dữu Tín…Vì quán triệt

phương châm kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân như thế ông mới có thể đạt được những
cống hiến vĩ đại trong thực tiễn sáng tác, và đã cùng nhiều nhà thơ khác trong thời đại mình
quét sạch lớp phấn son lòe loẹt giả tạo của sáu đời. Làm cho thơ Đường phát triển phồn vinh.
Nhân tố tư tưởng

Thời trẻ, Lý Bạch đã “thuộc làu thi thư, xem sách bách gia” cho nên ảnh hưởng người đời trước
đối với ông rất rộng rãi, phức tạp. Tư tưởng Nho gia và Đạo gia đều tác động vào ông, nhưng tư
tưởng Đạo gia sâu sắc hơn nhiều. Ngay cả tư tưởng du hiệp cũng đóng góp phần hình thành
phong cách đặc biệt của ông.
Khi ông định xây dựng sự nghiệp chính trị thì tư tưởng “kiêm tế thiên hạ” của Nho gia chiếm ưu
thế. Nhưng tư tưởng Nho gia của ông không nguyên vẹn và giáo điều. Ông nguyện “cứu dân
đen”, “làm cho dân đen được an cư lạc nghiệp” chứ không vì vinh hoa phú quý, càng không vì
vua chúa quý tộc. Cho nên nhiều lúc ông coi khinh, châm biếm cả ông tổ đạo Nho : “Ta vốn là
người điên nước Sở, hát ngông cười Khổng Khâu” lẫn lý tưởng : “Sự nghiệp Nghiêu Thuấn sá
kể chi, long ta phơi phới vẫn coi thường”. Lý Bạch không phỉ bang thánh hiền, ông chỉ muốn
vạch ra, lật đổ những lý tưởng mơ hồ, giả dối nghìn đời của chế độ phong kiến...
Những lúc ấy, tư tưởng Đạo gia đến với Lý Bạch và ông mượn nó để chống lại tư tưởng Nho gia
truyền thống, hay nói đúng hơn là tư tưởng Hán Nho mà bọn phong kiến dùng làm công cụ bảo
vệ quyền lợi cho chúng. Theo gót Lão Tử, nhất là Trang Chu, ông dùng tưởng tượng để đi sâu
vào bí mật vũ của trụ và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, tạo nên tinh thần và cách
biểu hiện lãng mạn trong thơ ca.Tuy có những lúc tiêu cực, chán nản, nhưng tinh thần lãng mạn

tích cực thường bao trùm, lấn át trong thơ ông. Tinh thần coi thường vinh hoa phú quý, tự tin
vào tài năng, hay mang hoài bão cứu nhân độ thế, ít nhiều gợi lên thái độ “phản nghịch” đối với
chế độ phong kiến khiến thơ ông mang ý vị siêu thoát, thể hiện cái khí thế hung tráng, cao rộng.
Tư tưởng du hiệp cũng chiếm địa vị quan trọng ở Lý Bạch. Nhà thơ tự xưng là Nho sinh, nhưng
nhiều khi xem thường, thậm chí châm biếm cuộc sống câu nệ, hủ lậu, gàn dở của nho sinh (Trào
Lỗ nho). Trái lại, ông hâm mộ cái hào phóng của các hiệp sĩ và tinh thần du hiệp mà họ theo
đuổi. Tư tưởng ấy có một ý nghĩa tích cực, và trong một chừng mực nào đó, đại biểu cho ý chí và
lợi ích của giai cấp lớp giữa và lớp dưới chống lại giai cấp thống trị. Nhất là khi nó kết hợp với
tinh thần “công toại thân thoái” của Đạo gia, làm việc nghĩa không cần ân thưởng, báo đáp.
Nội dung thơ ca

Do những nhân tố tư tưởng tích cực nói trên tác động đồng thời và từng lúc vào Lý Bạch nên
sáng tác của ông là một kết hợp hìa hòa giữa tính lãng mạn và tính hiện thực, trong đó tính lãng
mạn chiếm phần thượng phong. Những nội dung của thơ ông phản ánh rõ điều đó.
Loạn An - Sử bung nổ, triều đình thối nát, chính trị hủ bại... Lý Bạch phản ánh trực tiếp nếp
sống xa hoa đồi trụy của tầng lớp quan lại quý tộc, vạch trần các đế vương diễu võ dương oai,
mê đắm sắc dục, bạc đãi nhân tài. Ông phản đối các cuộc chiến tranh xâm lược, xua nhân dân
vào những tai họa vô cùng đau khổ để kết luận rằng “Gươm đao là vật gở, thánh nhân bất đắc
dĩ mới dùng đến” (Chiến thành nam). Từ đó, thơ ông chan chứa tình yêu quê hương, yêu đất

nước, đau xót trước cảnh xương rơi máu chảy (Tái hạ khúc, Phù Phong hào sĩ ca, Mãnh hổ
hành…), những muốn đem trí tuệ, tài năng ra thi thố để “cần vương trạch dân”. Tuy nhiên thực
tế phũ phàng khiến ông nhận ra mình chỉ là một thứ đồ trang sức cho cuộc sống xa hoa của giai
cấp cung đình. Ông lại chống gậy lên đường, vĩnh biệt những bài thơ mua vui cho bọn quyền
quý như Thanh bình điệu...
Yêu nước gắn liền với thương dân, ông đau xót cho số phận nhân dân trong vòng chiến loạn,
những con người vất vả khốn khó, làm việc như trâu như ngựa (Đinh đô hộ ca). Lý Bạch đặc
biệt chú ý đến người phụ nữ với một tấm lòng nhân đạo đáng quý. Ông phê phán hành động bất
nghĩa “có mới nới cũ” của nam giới, nói lên nỗi đau khổ bất hạnh của người phụ nữ bị ruồng

bỏ, phụ bạc (Thiếp bạc mệnh, Bạch đầu ngâm…) hay những người phụ nữ ngày đêm mong
chồng do chiến tranh ly biệt (Khuê tình, Đảo y thiên…). Đồng thời, ông phản ánh mơ ước của
họ về một tình yêu thủy chung, một hạnh phúc chân chính (Dạ tọa ngâm, Dương bạn nhi), ca
ngợi vẻ đẹp thuần khiết của người phụ nữ (Thái liên khúc, Việt nữ từ) và cũng nhiệt tình ca ngợi
sự phản kháng của phụ nữ trước bất công, áp bức (Tần nữ lưu hành, Đông Hải hữu dũng phụ).
Cũng vì thế mà ông mến phục các nhân vật trọng nghĩa kinh tài, các trang du hiệp “đến chết
xương vẫn còn thơm, không thẹn là khách anh hùng trên đời” (Hiệp khách hành) vì họ đã dám
chống bạo quyền, bênh vực người cô thế.
Tuy nhiên thơ ca phản ánh hiện thực, tố cáo giai cấp thống trị và cảm thông với nhân dân lao
động thì Lý Bạch còn thua xa về chất lượng cũng như số lượng so với Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị.
Ông chỉ vượt hai người này về thơ ca lãng mạn có nội dung tích cực. Đó là sở trường của ông,
xưa nay chưa ai địch nổi, đúng như lời khen ngợi của Đỗ Phủ : “Lý Bạch thơ không ai địch nổi,
siêu nhiên ý khác thường”.Thơ của ông thẳng cánh bay bổng như muốn thoát ly khỏi mặt đất,
khỏi đời thường, xem thường vinh hoa phú quý như mây nổi, tìm chén rượu tiêu sầu, cầu tiên
phỏng đạo và ngao du sơn thủy. Từ đó ông truyền cho thơ ca một hơi thở mới, một nội dung tân
kỳ ít thấy trong văn học cổ điển.
Giá trị nghệ thuật

Toàn bộ tác phẩm của Lý Bạch bao gồm hai nhân tố lãng mạn và hiện thực, nhưng nói về
khuynh hướng chủ đạo thì ông là bậc thầy của chủ nghĩa lãng mạn tích cực. Ông có tiếp thu ảnh
hưởng của Thi kinh, nhưng ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với ông vẫn là Sở từ của Khuất Nguyên.
Trong lối tự sự, ngôn chí, thuật hoài cũng như miêu tả, Khuất Nguyên đã xây dựng được một
loạt những hệ thống hình tượng sinh động, đẹp đẽ, kỳ vĩ khá hoàn chỉnh nhằm phản ánh chân
thực mâu thuẫn xã hội và xung đột nội tâm. Từ đó người đọc nhận ra lý tưởng, tình cảm mãnh
liệt cùng hoài bão to lớn của tác giả. “Huyền thoại hóa” có thể nói là bút pháp chủ đạo của Ly
tao, Cửu chương, Cửu ca...
Lý Bạch kế thừa Khuyất Nguyên nhưng phát huy cao hơn với tinh thần sáng tạo, cách tân. Trước
hết, ông thường xuyên dùng thủ pháp khoa trương – ngoa dụ của thơ ca dân gian và trí tưởng
tượng phong phú trong mọi đề tài. Ông thong qua cảnh giới thần tiên, ảo tưởng, siêu phàm để
thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của bản than, lấy chuyện ngày xưa để nói chuyện hiện tại, nhất là khi

ông bày tỏ long căm ghét, phê phán, đả kích. Ông lại gửi gắm tâm hồn, tư duy của mình vào
thiên nhiên. Thiên nhiên như một người bạn tri âm tri đắc, hiểu rõ nỗi long ông, an ủi, khuyến

khích, giúp đỡ ông xua tan những cái xấu xa, đưa lại những điều tốt đẹp. Thủ pháp nhân hóa đó
quả là mới mẻ, táo bạo, nẩy sinh từ sức tưởng tượng khác thường, đưa tình cảm sôi nổi và
nguyện vọng thiết tha của nhà thơ vào đối tượng được miêu tả, khiến thơ ca giàu ý nghĩ và lôi
cuốn. Ông kết hợp khéo léo các cách thể hiện tính lãng mạn như thần thoại hóa, nhân cách hóa,
khoa trương ảo tưởng cùng với một thứ ngôn ngữ hào phóng để tạo nên những hình tượng nghệ
thuật kỳ vĩ, biểu hiện những lý tưởng và nguyện vọng đẹp đẽ cũng như long yêu ghét mãnh liệt
do hiện thực khêu gợi ra. Trong bài “Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt” chẳng hạn, những hình
ảnh “Thiên Mụ ngang trời chắn núi xanh”, “Mây xanh xanh chừ mưa tới, nước thăm thẳm chừ
khói loang”, những âm thanh “Gấu thét rồng gào suối dội vang”, “Sấm vang chớp giật, gò sụt
núi tan” cùng những so sánh, ẩn dụ, nhân hóa “Rừng sâu khiếp chừ núi kinh hoàng”, “Mống
làm áo chừ gió làm ngựa”, “Loan kéo xe chừ hổ gảy đàn”…tạo nên một thế giới lạ lung, hung
vĩ, bí ẩn, đưa tâm hồn con người lên chỗ cao rộng, thoát khỏi cuộc đời tầm thường, nhỏ mọn
hang ngày.
Lại nữa, Lý Bạch kế thừa có phê phán, chọn lọc truyền thống tốt đẹp của thơ ca Hán - Ngụy trở
về sau, đồng thời ra sức học tập thơ ca dân gian quá khứ và đương đại nên có những thành tựu
trác việt về ngôn ngữ, nghệ thuật : sinh động, hoa mỹ, trau chuốt nhưng trong sang, giản dị, tự
nhiên, không hề có dấu vết chạm trổ tỉ mỉ công phu, “áo nhà trời không có đường may” mà thật
đẹp, thật hay. Thơ nhạc phủ của ông chiếm một phần đáng kể. Ông dùng đề mục cũ để sáng tạo
ý mới, truyền lại hơn một trăm bốn chục bài. Những bìa ông tự đặt đề mà làm cũng giàu phong
cách dân ca (Tĩnh dạ tứ, Việt nữ từ, Tặng Uông Luân…). Thơ thất ngôn tuyệt cú của ông – cùng
với Vương Xương Linh – là thất ngôn tuyệt cú bậc nhất đời Đường, được xưng tặng là “tay
thánh tuyệt cú”. Làm thơ luật ông cũng không câu nệ thanh vận, đối ngẫu, thoát khỏi khuôn khổ
gò bó của niêm đối...
Dưới ngọn bút tài hoa của ông, cảnh song núi thanh tú; cảnh chiến trường hung vĩ; vầng trăng
lồng lộng theo ông mấy chục năm từ núi Nga Mi đến hồ Thái Bạch; người hiệp sĩ vung gươm
làm việc nghĩa quên mình; người thiếu phụ thao thức chốn khuê phòng vò võ nhớ thương; nhà

ẩn dật cao ca bên bầu rượu coi khinh hết thảy khanh tướng công hầu…hiện ra sống động và tự
nhiên. Không gì ngăn trở nổi trí tưởng tượng sáng tạo mãnh liệt của ông được. Và bất cứ đề tài
nào thơ ông cũng giàu xúc động, luôn bay bổng, phóng khoáng, uyển chuyển, khó có thể liệt ông
vòa một “trường phái” nhất định nào. Ngôn ngữ thơ ca của ông khi thì tung hoành mạnh mẽ
như “nộ đào hồi lãng”, “Thiên mã hành không”, khi thì dịu dàng hư ảo như “huyền ngoại âm,
vị ngoại vị”, các nhà thơ lớp sau khó long bắt chước được. Đến Đỗ Phủ cũng phải than phục
“Bạch dã thi vô địch”, vô địch ở số lượng hơn hai mươi nghìn bài, vô địch ở chất lượng như lời
Bì Nhật Hưu thời vãn Đường : "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến nay, ngữ ngôn ra ngoài trời
đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì long ôm bốn bể, lỗi
lạc dị thường, không phải là lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch".
Mắt nào em ném trao anh
Dao cau bổ dọc toang mành trời đêm
Môi nào rót mật ...say mềm
Mà giờ rơi rớt ... bên thềm lắt lay
Vũ Anh Vũ