Hiện tượng chuyển loại của từ là gì

Xem mẫu

CHUYỂN LOẠI – MỘT PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO
TỪ TRONG TIẾNG VIỆT
Trần Hoàng Anh1
Tóm tắt: Sử dụng các phương pháp so sánh, phân tích và tổng hợp, bài viết tập trung
chứng minh chuyển loại là một phương thức cấu tạo từ ngữ trong tiếng Việt. Bài viết
khái quát các ý kiến đi trước về hiện tượng chuyển loại của từ trong tiếng Việt. Trên
cơ sở đó, tác giả tập trung phân tích các đặc trưng về mặt ngữ âm, ngữ pháp và ngữ
nghĩa của từ chuyển loại. So sánh từ chuyển loại với từ đồng âm, từ đa nghĩa và đưa
ra một số quy tắc chuyển loại cơ bản trong tiếng Việt.
1. Giới thiệu
Hiện tượng chuyển từ từ loại này sang từ loại khác là một hiện tượng tồn tại
điển hình, phổ biến trong các ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt. Chúng được xem là
một trong những phương thức cấu tạo từ thường gặp. Trong lịch sử nghiên cứu tiếng
Việt, khi phân loại từ theo từ loại, các nhà nghiên cứu cho rằng loại của từ không phải
là bất di bất dịch, giữa các loại của từ có một bộ phận chuyển hóa lẫn nhau. Vậy bản
chất của chuyển loại là gì? Bên cạnh đó, khi nghiên cứu hiện tượng chuyển loại trong
tiếng Việt, chúng ta cần phân biệt hai dạng chuyển loại, đó là chuyển loại bên trong
và chuyển loại bên ngoài. Hai dạng này được tạo ra theo hai phương thức khác nhau.
Hơn nữa, các từ được tạo ra giữa hai loại đó có đặc điểm khác nhau.
Chuyển loại bên ngoài là hiện tượng trong tiếng Việt, các động từ, tính từ có thể
chuyển hóa thành danh từ do sự tác động của yếu tố bên ngoài (yếu tố chuyên dùng,
yếu tố công cụ ngữ pháp). Ví dụ: Cái đẹp (đẹp là danh từ), nỗi buồn (buồn là danh từ)
Đây là hiện tượng mà “mỗi động từ, tính từ trong tiếng Việt có khả năng danh
hóa do kết quả của cách thức tri nhận, bởi một danh từ tương ứng bằng cách kết hợp
với một chỉ tố ngữ pháp nào đó” [5, tr.58]. Hiện tượng chuyển loại bên ngoài diễn ra
gắn với hoạt động giao tiếp, gắn với ngữ cảnh, có tính chất không cố định. Trong
phần trình bày tiếp theo, chúng tôi sẽ không bàn nhiều về hiện tượng chuyển loại bên
ngoài này.
Kiểu chuyển loại thứ hai là chuyển loại do chuyển hóa bên trong. Hiện tượng
này diễn ra do sự thay đổi cơ cấu nghĩa của các loại từ, có tính quy tắc và tương đối
ổn định, diễn ra phổ biến trong tiếng Việt và không phụ thuộc vào yếu tố chuyên
dùng như chuyển loại bên ngoài.
Nghiên cứu về vấn đề chuyển loại của từ không thể tách rời với việc nghiên cứu
vấn đề từ loại. Có nhiều ý kiến khác nhau về từ loại của từ trong tiếng Việt cũng như
về hiện tượng chuyển loại của từ.

1

ThS, Khoa Ngữ văn, trường Đại học Đồng Tháp

TRẦN HOÀNG ANH
Nhóm quan niệm thứ nhất: Tiếng Việt không có từ loại (nhất từ đa loại). Đây là
quan niệm của Lê Quang Trinh, Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê. Các tác giả
cho rằng tiếng Việt chỉ có từ không thôi, nhất loạt là đơn âm tiết, không có danh từ,
không có đại từ, số từ, động từ mà chỉ có từ. Từ có thể thuộc bất kể từ loại nào. Ý
nghĩa cơ bản của chúng là do những từ đặt trước hay đặt sau mà có [4].
Nhóm quan niệm thứ hai: Tiếng Việt có từ loại và có chuyển loại.
- Nguyễn Tài Cẩn cho rằng: các từ có đặc trưng hỗn hợp các từ loại là từ đồng
âm [2]. Các tác giả trên, mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau nhưng đều cho
những loại từ vừa nói (các từ có đặc trưng hỗn hợp từ loại) là từ đồng âm.
- Tác giả Đỗ Hữu Châu lại cho rằng đấy là hiện tượng đa nghĩa của từ [3].
Quan điểm này có ưu điểm là đứng về các bình diện nghĩa của từ vựng mà xét các
đơn vị từ vựng, do trong các hình thức này nghĩa của chúng có quan hệ mật thiết theo
quan hệ hoán dụ.
- Một số tác giả khác như Diệp Quang Ban, Hồ Lê, Nguyễn Văn Tu, Hà Quang
Năng, … cho các từ nêu trên là từ chuyển loại và bản chất của chúng khác từ đồng
âm. Theo tác giả Diệp Quang Ban: Chuyển di từ loại – chuyển loại – là một hiện
tượng một từ khi thì dùng với ý nghĩa này và đặc điểm ngữ pháp của từ loại này, khi
thì được dùng với ý nghĩa và đặc điểm ngữ pháp của từ loại khác [1].
Như vậy, để khẳng định chuyển loại là một phương thức cấu tạo từ trong tiếng
Việt, một mặt phải xác định đặc trưng của các từ chuyển loại, chỉ ra quy tắc chuyển
loại, mặt khác cần phải phân biệt từ chuyển loại với từ đồng âm và từ đa nghĩa.
2. Đặc trưng của hiện tượng chuyển loại
Như trên chúng tôi đã trình bày, cần xem xét hiện tượng chuyển loại là phương
thức cấu tạo từ. Về mặt ngữ âm thì từ chuyển loại có hình thức đồng âm. Nó rất giống
với từ đa nghĩa và từ đồng âm. Chính vì thế, để chỉ ra đặc trưng của từ chuyển loại
cần so sánh với hiện tượng đồng âm và hiện tượng đa nghĩa để thấy sự khác biệt giữa
hiện tượng chuyển loại với những hiện tượng này.
Xét đặc trưng hiện tượng chuyển loại, chúng ta cần phải xét trên cả ba phương
diện là ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp giữa đơn vị gốc và đơn vị phái sinh.
- Về mặt ngữ âm, từ chuyển loại giữ nguyên vỏ âm thanh của đơn vị gốc. Muối
trong hạt muối và muối trong muối dưa, cà là đồng nhất về âm thanh. Tương tự như
vậy, cày trong cái cày và cày trong đi cày là phát âm đồng nhất.
- Về mặt ngữ nghĩa, từ chuyển loại chuyển nghĩa từ nghĩa của đơn vị gốc theo
quy luật nhưng trong quá trình chuyển nghĩa, cấu trúc nghĩa của đơn vị phái sinh đã
có sự đổi khác so với đơn vị gốc. Số lượng nét nghĩa khác nhau và xuất hiện những
nét nghĩa mới thuộc phạm trù từ loại khác. Sự sắp xếp, tổ chức các nét nghĩa của đơn
vị phái sinh đã khác về bản chất so với đơn vị gốc. Nó đã đại diện cho một đơn vị
mới mang tính từ loại mới.
6

CHUYỂN LOẠI – MỘT PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO TỪ TRONG TIẾNG VIỆT
Chẳng hạn: Cày trong đẽo cày giữa đường có các nét nghĩa: “[công cụ của nhà
nông], [dùng để lật đất, chuẩn bị trồng trọt]”. Ngược lại Cày trong tôi đã cày xong
thửa ruộng: “[hoạt động], [sử dụng công cụ là cày] [để lật đất chuẩn bị trồng trọt]”.
Chúng ta thấy rằng nghĩa của hai từ có quan hệ với nhau là quan hệ hoán dụ:
công cụ - hoạt động sử dụng công cụ. Tuy nhiên, nét nghĩa hoạt động là nét nghĩa
mới, thuộc phạm trù từ loại khác nên cách sắp xếp tổ chức các nét nghĩa trong cấu
trúc nghĩa của hai từ đã khác nhau. Chúng ta có thể hình dung điều này qua sơ đồ sau:
Cày (trong cái cày): Công cụ => mục đích, chức năng của công cụ
Cày (trong đã cày): Hoạt động => phương tiện hoạt động => mục đích,
chức năng của hoạt động
Như vậy, bản chất của hiện tượng chuyển loại trong tiếng Việt chính là sự
chuyển nghĩa làm biến đổi cấu trúc nghĩa của từ. Dựa vào những tư liệu đã có, chúng
tôi thấy rằng sự biến đổi cấu trúc nghĩa của từ khi cấu tạo từ theo phương thức
chuyển loại diễn ra theo những hướng chủ yếu sau:
Có thể triệt tiêu một hoặc một số nghĩa vị (nghĩa tố) trong cấu trúc nghĩa của từ
được cấu tạo bằng chuyển loại. Nhưng phổ biến hơn cả là hiện tượng mở rộng cấu
trúc nghĩa khi chuyển loại. Thông thường từ nào có cấu trúc nghĩa phức tạp hơn là từ
chuyển loại.
Ví dụ: Muối (danh từ): tinh thể màu trắng, có vị mặn, thường tách ra từ nước
biển, dùng để ăn.
Muối (động từ): hoạt động, dùng muối cho vào thịt, cá, rau, quả để giữ được lâu
hoặc làm thức ăn chín, thay đổi mùi vị.
Tuy nhiên, giống như Hoàng Phê đã phân tích và kết luận: Trong một số trường
hợp, có thể căn cứ vào dấu hiệu chức năng ngữ pháp thường trực (đơn vị gốc) và
không thường trực để xác định đơn vị mới được chuyển loại (đơn vị phái sinh). Ví dụ:
nhân dân trong Nhân dân Việt Nam rất cần cù là đơn vị gốc (danh từ), nhân dân
trong Quân đội nhân dân hay Chính quyền nhân dân là đơn vị phái sinh, từ chuyển
loại (tính từ) [8].
- Về mặt ngữ pháp: Vì cấu trúc nghĩa của từ chuyển loại đã khác từ gốc nên kéo
theo đó là đặc điểm ngữ pháp của đơn vị phái sinh cũng khác. Điều này thể hiện ở
khả năng kết hợp của từ cũng như khả năng đảm nhận chức năng ngữ pháp của
chúng.
Ví dụ: Cái đục này // khá sắc. Tôi // đang đục cái bàn.
CN

VN.

CN

VN.

Hoặc: Cái cưa này // rất bén. Tôi // đang cưa mấy cành xoài bị sâu.
CN

// VN.

CN //

VN
7

TRẦN HOÀNG ANH
Mỗi từ loại đều có khả năng kết hợp điển hình và phân biệt với khả năng kết
hợp của từ loại khác. Bản chất của hiện tượng chuyển loại là do sự chuyển nghĩa làm
cho cấu trúc nghĩa của từ phái sinh thay đổi, kéo theo sự thay đổi về ngữ pháp. Từ
thuộc loại này trở thành một từ mới thuộc loại khác trong khi vỏ âm thanh không thay
đổi. Chính vì vậy mà khả năng tham gia của từ vào những tổ hợp khác nhau đặc trưng
cho những từ loại khác nhau sẽ được coi là dấu hiệu của hiện tượng chuyển loại.
Cùng với tiêu chuẩn ngữ nghĩa, khả năng kết hợp của từ, khả năng đảm nhận chức
năng ngữ pháp của từ phải được coi là một tiêu chuẩn bắt buộc khi xác định hiện
tượng chuyển loại trong tiếng Việt.
Nếu chúng ta so sánh hiện tượng chuyển loại với hiện tượng đa nghĩa và hiện tượng
đồng âm thì chúng ta sẽ thấy rằng hiện tượng chuyển loại có những điểm khác biệt.
Chuyển loại khác với đồng âm về bản chất. Tuy hai hiện tượng này nếu xét về
mặt ngữ âm là giống nhau. Chúng đều có vỏ âm thanh đồng nhất. Nhưng nếu xét về
mặt ngữ nghĩa thì chuyển loại và đồng âm lại khác xa nhau. Từ đồng âm là những từ
giống nhau về âm thanh nhưng khác nhau về nghĩa. Nói cách khác, đó là hai từ đồng
nhất về ngữ âm nhưng ngữ nghĩa không liên quan đến nhau. Ngược lại, một số từ
chuyển loại có vỏ ngữ âm giống nhau, có nghĩa khác nhau nhưng có lại liên hệ với
nhau như trên ta đã phân tích.
Đa nghĩa và chuyển loại đều là kết quả của sự chuyển nghĩa của từ theo quy luật.
Chính vì vậy giữa các nghĩa của từ đa nghĩa cũng như giữa các nghĩa của từ chuyển
loại, chúng có quan hệ ngữ nghĩa với nhau. Song sự khác nhau giữa hai loại này là ở
chỗ, các nghĩa của từ đa nghĩa có cùng một cấu trúc nghĩa, thuộc một từ loại nên khả
năng kết hợp cũng như khả năng đảm nhận chức năng ngữ pháp của từ khi dùng với
nghĩa nào cũng như nhau. Còn với các từ chuyển loại, nghĩa của chúng có cấu trúc
nghĩa khác nhau, thuộc các phạm trù từ loại khác nhau nên khả năng kết hợp cũng như
khả năng đảm nhận chức năng ngữ pháp của các từ chuyển loại là khác nhau.
Mặt khác, các từ chuyển loại được tạo ra có tính đồng loạt, mang tính quy tắc
và diễn ra với tất cả các từ loại.
Như vậy, chuyển loại là một phương thức cấu tạo từ, nhờ đó mà một từ mới
thuộc phạm trù từ loại này được tạo ra từ một từ loại khác mà vẫn giữ nguyên vỏ âm
thanh, đồng thời tạo ra ý nghĩa mới có quan hệ nhất định với ý nghĩa của từ xuất phát
và có những đặc trưng ngữ pháp mới thể hiện ở khả năng kết hợp và chức năng làm
thành phần câu khác với đặc trưng của đơn vị xuất phát.
3. Một số quy tắc chuyển loại cơ bản
Như chúng ta đã khẳng định, chuyển loại là một phương thức cấu tạo từ trong
tiếng Việt. Vì vậy, về nguyên tắc, hiện tượng này có thể xảy ra ở tất cả mọi từ loại.
Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày một số quy tắc chuyển loại cơ bản, xoay quanh các từ
loại: danh từ, động từ, tính từ.

8

CHUYỂN LOẠI – MỘT PHƯƠNG THỨC CẤU TẠO TỪ TRONG TIẾNG VIỆT
3.1. Thực từ chuyển thành thực từ
3.1.1. Động từ chuyển thành danh từ và tính từ
3.1.1.1. Động từ chuyển thành danh từ
a. Động từ biểu thị hoạt động chuyển thành danh từ chỉ đồ vật, sự vật, kết quả
hoạt động đó. Ví dụ: bước, di chúc, kí họa, đăng kí, cuộn, buộc, gói, chỉ thị, thông
báo, tổng kết, báo cáo, …
- Anh bước (động từ) tới đây một bước (danh từ).
- Tôi gói (động từ) lại các gói (danh từ) này nhé!
b. Động từ biểu thị hành động điển hình đặc trưng cho một người hoặc một
nhóm người được dùng để chỉ nghề, chức năng của một tầng lớp người. Ví dụ: đạo
diễn, kế toán, đặc công, do thám, phiên dịch, trinh sát, cướp, trộm, chỉ huy, chủ tọa,

- Anh để tôi đạo diễn (động từ) cho.
- Anh ấy là đạo diễn (danh từ).
c. Động từ chỉ hoạt động chuyển thành danh từ chỉ các đồ vật, công cụ để thực
hiện hành động đó. Ví dụ: kích, chắn, kè, xịt, bơm, …
- Tôi bơm (động từ) xe máy bằng cái bơm (danh từ) này.
- Anh ta kích (động từ) cá bằng cái kích (danh từ) này.
d. Động từ biểu thị hoạt động trừu tượng chuyển thành danh từ chỉ tên hành
động, trạng thái được coi là kết quả của hành động. Ví dụ: khởi nghĩa, khủng bố, cách
mạng, kháng chiến, bố cục, kết cấu, chuyên chính, cam đoan, cam kết, kỉ niệm, …
- Tôi kỉ niệm (động từ) bạn cái bút.
- Đó là một kỉ niệm (danh từ) đẹp.
3.1.1.2. Động từ chuyển thành tính từ
a. Động từ biểu thị hoạt động, trạng thái cảm xúc, tình cảm của con người
chuyển thành tính từ biểu thị thuộc tính, phẩm chất của trạng thái đó. Ví dụ: chùng,
căng, tóm tắt, khái quát, quyến rũ, khêu gợi, chán, …
- Tôi đang tóm tắt (động từ) lại câu chuyện.
- Anh ấy kể lại câu chuyện một cách tóm tắt (tính từ).
b. Động từ biểu thị hành động chuyển thành tính từ biểu thị tính chất, thuộc tính
của sự vật có liên quan đến hành động, cách thức hành động đó. Ví dụ: khùng, gượng,
kén, kè nhè, kêu, kênh, in, …
- Anh ta đang kêu (động từ) bạn về ăn cơm.
- Nó quảng cáo kêu (tính từ) lắm.

9

nguon tai.lieu . vn

Hiện tượng chuyển loại của từ nghĩa là gì?

Đó là hiện tượng thay đổi ý nghĩa của một từ, từ một thực thể hoặc khái niệm cụ thể sang một quá trình hoặc một thuộc tính [7, tr. 189-190]. Theo Hoàng Văn Hành, nếu sự chuyển nghĩa diễn ra trong điều kiện mà kiểu cơ cấu nghĩa thay đổi thì đó là hiện tượng chuyển loại.

Phương thức cấu tạo từ là gì?

Phương thức cấu tạo từ là “cách thức mà ngôn ngữ học tác động vào hình vị để cho ta các từ”[6,tr. 25]. Theo Đỗ Hữu Châu, “tiếng Việt sử dụng ba phương thức sau đây: từ hoá hình vị, ghép hình vị và láy hình vị” [6, tr. 25].