Thuốc cup dù là thyoocs gì
Bài viết bởi Bác sĩ Nguyễn Đình Hùng - Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện đa khoa Quốc tế Vinmec Hải Phòng Thuốc cản quang (TCQ) là những thuốc gây tăng hấp thu tia X và các loại tia khác khi chiếu qua cơ thể, do đó thuốc làm hiện rõ cấu trúc của cơ quan tập trung nhiều thuốc, có tác dụng hỗ trợ cho việc chẩn đoán bệnh. Cùng với sự phát triển của công nghệ chẩn đoán hình ảnh, thuốc cản quang ngày càng được sử dụng rộng rãi. Trong đó, thuốc cản quang có chứa iod được sử dụng phổ biến nhất. Tuy vậy, những vấn đề về an toàn trong sử dụng thuốc cản quang ít được đề cập trong các giáo trình dược lý cũng như các tài liệu y văn mặc dù đây là thuốc có liều tiêm qua đường tĩnh mạch lớn hơn nhiều các thuốc điều trị khác. Trong chẩn đoán hình ảnh: Thuốc cản quang có thể sử dụng qua đường uống, đường bơm thụt hoặc đường tiêm tĩnh mạch. Thuốc cản quang được tiêm trực tiếp vào tĩnh mạch Thuốc cản quang có thể sử dụng qua đường uống và bơm thụt trong các trường hợp đánh giá đường tiêu hóa, tìm đường rò. Ngày nay do vai trò của nội soi và các phương pháp chẩn đoán khác phát triển mạnh nên việc dùng thuốc cản quang qua đường uống và bơm thụt không còn phổ biến. Tuy nhiên trong một số trường hợp và một số cơ sở Y tế vẫn phải sử dụng đối với đường tiêu hóa. Khi nào bạn nên thực hiện chụp X-quang đường tiêu hóa trên có cản quang? Chụp X-quang có cản quang đường tiêu hóa trên (thường là thuốc cản quang tan trong nước) được thực hiện để:
Thông thường, bạn sẽ không phải làm xét nghiệm chụp X-quang đường tiêu hóa trên có cản quang nếu bạn không có triệu chứng về tiêu hoá. Bạn nên thực hiện xét nghiệm này nếu:
Chụp X-quang kiểm tra đường tiêu hóa nếu có cảm giác khó nuốt khi ăn uống Ngày nay thuốc cản quang đường mạch máu thường đường sử dụng trong chụp cắt lớp vi tính, chụp mạch máu số hóa xóa nền và can thiệp nội mạch. Đối với chụp cắt lớp vi tính có cản quang: Chụp CT hay còn được gọi là chụp cắt lớp vi tính là kỹ thuật dùng những tia X-quang quét lên một khu vực của cơ thể theo lát cắt ngang phối hợp với những xử lý bằng máy vi tính để được một hình ảnh 2 chiều hoặc 3 chiều bộ phận cần chụp. Chụp CT có thuốc cản quang: Áp dụng trong một số trường hợp, cần khảo sát tổn thương và mạch máu kỹ lưỡng hơn, chuyên viên y tế sẽ tiêm vào cơ thể một loại thuốc cản quang. Thuốc cản quang có chứa Iod sẽ làm cho những cấu trúc hoặc tổn thương bắt thuốc có màu trắng sáng trên hình chụp cắt lớp vi tính, điều này sẽ giúp phân biệt vùng bất thường với các cấu trúc khác xung quanh nó. Đối với chụp mạch máu số hóa xóa nền (DSA) và can thiệp nội mạch dưới máy số hóa xóa nền. Chụp DSA và can thiệp: Bác sĩ cần đưa lượng thuốc cản quang vào lòng mạch để xác định vị trí hẹp, tắc hoặc đánh giá cấu trúc mạc tăng sinh cần được làm tắc trong quá trình can thiệp điều trị. Thuốc cản quang đường mạch máu dùng trong chẩn đoán hình ảnh Thuốc cản quang giống như tất cả các loại dược phẩm khác, các tác nhân này không hoàn toàn không có rủi ro. Mục đích chính của hướng dẫn này là hỗ trợ các bác sĩ X-quang nhận biết và quản lý các rủi ro dù là nhẹ hăng nặng nhưng thực sự có thể xảy ra trong quá trình sử dụng thuốc cản quang.. Tác dụng không mong muốn của thuốc cản quang thay đổi từ rối loạn sinh lý nhỏ đến các tình huống đe dọa tính mạng nghiêm trọng hiếm gặp. Chuẩn bị cho điều trị kịp thời các phản ứng dị ứng hay phản vệ phải bao gồm chuẩn bị cho toàn bộ các bất lợi tiềm ẩn gồm: lập kế hoạch phản ứng được sắp xếp trước với sự sẵn sàng của nhân viên, thiết bị và thuốc đồng thời được đào tạo phù hợp. Việc chuẩn bị như vậy được hoàn thành tốt nhất trước khi ra y lệnh và sử dụng thuốc cản quang với bệnh nhân. Ngoài ra, một chương trình cải tiến chất lượng và đảm bảo kiến thức nhận biết và xử trí cho tất cả các bác sĩ X-quang. Trước khi làm thủ tục tiêm thuốc cản quang phục vụ cho công tác chẩn đoán cần xem xét bệnh án của bệnh nhân bao gồm:
Các yếu tố nguy cơ: Các yếu tố nguy cơ dẫn đến tỷ lệ xảy ra phản ứng không mong muốn khi dùng thuốc cản quang trên một số bệnh nhân có các tiền sử và bệnh tật sau:
Bệnh nhân mắc các bệnh về tim mạch làm tăng nguy cơ xảy ra phản ứng với thuốc cản quang
Chuẩn bị trước khi sử dụng thuốc: Test trong da: Thử nghiệm da trong da với thuốc cản quang để dự đoán khả năng phản ứng bất lợi đã không được chứng minh là hữu ích trong việc giảm thiểu rủi ro phản ứng. Sử dụng Corticosteroid trước khi sử dụng thuốc cản quang: Mục đích của việc sử dụng corticosteroid là để giảm thiểu khả năng xảy ra phản ứng giống như dị ứng ở những bệnh nhân có nguy cơ cao. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia tin rằng việc dùng thuốc trước sẽ làm giảm khả năng phản ứng ở những bệnh nhân có nguy cơ cao được sử dụng thuốc cản quang có độ thẩm thấu thấp. Nếu trong quá trình sử dụng thuốc cản quang hoặc sau khi sử dụng. Bệnh nhân xảy ra phản ứng với thuốc thì tùy theo mức độ nặng nhẹ sẽ xử trí theo phác đồ cấp cứu phản vệ của Bộ y tế. Để đăng ký khám và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec, Quý Khách có thể liên hệ đến Hotline Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc, hoặc đăng ký khám trực tuyến TẠI ĐÂY. XEM THÊM:
Ông T. Trương hỏi: "Thưa Bác sĩ, Khi còn ở trong tù ngoài Bắc có lần khi xoay mình cắt cỏ tôi bị đau ngang thắt lưng đi không nổi. Bạn bè gọi là tôi bị “cụp xương sống,” dù tôi không khiêng vác nặng nhọc gì cả. Bác sĩ bệnh xá lúc bấy giờ chích Novocain vào lưng để giúp giảm đau. Khoảng một tuần sau thì hết đau. Khoảng một năm sau tôi cùng một người khác khác cúi khiêng một bao khoai lang thì bị cụp xương sống. Lần này nặng hơn, đi phải có người dìu. Khoảng 15 ngày sau hết đau. Khi sang Mỹ có lần tôi bê một Microwave thì bị cụp lại. Khám bác sĩ Mỹ thì ông cho uống giảm đau và tập thư giãn. Hiện nay tôi rất cẩn thận khi khiêng hay bưng cái gì, không cúi xuống mà chỉ rùn hai đầu gối xuống thôi và thẳng lưng. Tuy nhiên hiện nay mỗi sáng thức dây, tôi thấy nhói ngang thắt lưng tưởng là bị cụp xương sống nữa, nhưng sau đó trở lại bình thường. Xin bác sĩ giải thích về bệnh cụp xương sống, cách phòng ngừa và chữa trị. Cám ơn bác sĩ nhiều lắm." Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời: Cột xương sống chúng ta gồm những đốt xương sống (vertebra) nối liền với nhau bằng những cái điã đệm (intervertebral disc) để giảm thiểu tác dụng các va chạm trên các đốt xương đó (shock absorbers). Mỗi cái điã nhìn vào có thể so sánh như một lát bánh tét: ở vòng ngoài có một vỏ sợi hình tròn bao bọc, tiếng Anh gọi là annulus fibrosus (“chiếc nhẫn”), chỉ có ít mạch máu nuôi dưỡng nên dễ bị hư hại; ở giữa chúng ta có cái nhân mềm hơn, chứa nhiều nước, không có mạch máu nuôi dưỡng nên cũng dễ thoái hoá (hư), tác dụng như một cái nệm nước, gọi là nucleus pulposus (“nhân thịt”). Càng về già, cái nhân này càng dễ bị khô hơn, ít dẻo dai hơn. Nhờ các đĩa này xương sống lúc còn trẻ mới cử động một cách êm ái và uyển chuyển được. Cái vỏ sợi hình nhẫn có thể bị rách một vài nơi ngoại biên, rồi rách rộng ra, làm đĩa yếu đi, phình ra ngoài giới hạn cột sống, bề dày đĩa giảm xuống, điã cứng lại, không co dãn như trước. Người ta gọi là đĩa thoát vị (disc herniation) nếu cái đĩa biến dạng phình ra ( bulging) khỏi vị trí bình thường của nó. Do các chất gây viêm từ trong trung tâm nhân của đĩa bị xì ra phía ngoài, kích thích, làm khó chịu (irritate) các dây thần kinh nhỏ nằm trong lớp ngoài ngoài vỏ đĩa , làm chúng ta cảm thấy đau lưng vùng đó. Cột sống dần dần mất tính ổn định (stability), các đốt xương sống phản ứng bằng cách mọc ra những mấu xương (osteophytes) để chống đỡ phụ, các mấu xương này có thể đè lên các sợi dây thần kinh, làm đau hai chân và hai vai, cánh tay. Đồng thời các bắp cơ (bắp thịt) hai bên sống lưng cũng co rút lại để chống đỡ . Xương sống lưng (lumbar spine) và cổ (cervical spine) là nơi chịu ảnh hưởng nhiều nhất của các động tác đi đứng, khiêng nặng, cúi lên cúi xuống của chúng ta. Ngoài ra còn có thể có tác hại do tai nạn, chấn thương, bịnh béo phì cũng như tác dụng do yếu tố di truyền (có những người mang gen có tác dụng làm cho đĩa đệm của họ yếu hơn bình thường). Do đó, ít hay nhiều, nhanh hay chậm tùy theo trường hợp, trong mỗi chúng ta , các đĩa đệm đều từ từ sẽ có những dấu hiệu hư hại qua thời gian, và bắt đầu rất sớm, từ tuổi thanh niên (khoảng 20 tuổi). Các nghiên cứu về hình ảnh (CT, MRI) có thể là cần thiết để định bệnh hay loại bỏ những nguyên nhân có thể nguy hiểm có thể hiện diện (như u bướu, lệch các đốt xương sống, chèn ép tủy sống), tuy nhiên tùy theo suy luận của bác sĩ. Không phải tất các thay đổi bất thường đều phải sửa chữa và sửa chữa chúng sẽ giải quyết được các triệu chứng. Ví dụ trong bịnh Spondylolisthesis: một trong các đốt sống dưới trượt về phía trước đốt xương ngay bên dưới nó, gây đau dai dẳng phần dưới lưng, cứng lưng và hai chân, đau trong đùi, các cơ mông và sau đùi co rút lại (tight). Có thể điều trị bằng trong hầu hết các trường hợp bằng cách dùng thuốc giảm viêm, mang nẹp, vật lý trị liệu hay phẫu thuật. Mặc dù gọi là bịnh “thoái hóa”, có hai điểm cần chú ý: 1) Trong số người mà đĩa thoái hóa thấy trên CT, MRI, chỉ một số ít người là đau lưng thật sự. Theo một khảo cứu những người không có triệu chứng gì cả (không đau/asymptomatic), càng lớn tuổi, các hình ảnh trên CT, MRI càng cho thấy những dấu hiệu thoái hoá đĩa đệm, 37 % người 20 tuổi, 70% ở người dưới 50 tuổi và 90% trên người trên 60 tuổi. Có nghĩa các thay đổi chỉ dấu thoái hoá này ở người không có triệu chứng có thể xem như một dấu hiệu của sự tăng tuổi bình thường chứ không phải bệnh cần chữa . 2) Trong số người đau do thoái hóa đĩa, đa số tương đối trẻ 45-55 tuổi, người già hơn nữa (trên 60) thì lại ít đau hơn , dù là đa số cột sống thoái hóa, vì những nơi đau có thể đã tự ổn định (stabilized). Có một số người cho rằng thời tiết, áp suất không khí, độ ẩm thấp trong không khí làm đau nhức xương khớp. Tuy nhiên các khảo cứu khoa học chỉ chứng minh tác dụng của áp suất không khí (giảm lúc trời sắp giông mưa) làm đau xương khớp. Nói chung không khí ẩm thấp, tù túng quá làm các nấm mọc trong nhà, không tốt cho sức khỏe, gây dị ứng. Nên giữ mức ẩm 40% là vừa. Ngược lại, về mùa đông sắp tới không nên để không khí quá khô trong nhà bên Mỹ. Bịnh thoái hoá cột sống nói chung không liên hệ với khả năng ung thư. Cách phòng ngừa: Để giảm khả năng bị đau lưng phần dưới, có thể cố gắng áp dụng 10 điểm sau:
Trị liệu: A) Biện pháp bảo thủ cho các trường hợp đơn giản: 1. đắp nước đá 2-3 ngày lên những vùng đau (lạnh làm giảm sưng/viêm) 2. thuốc men: Thuốc loại NSAID (Non Steroid Anti-inflammatory Drug: thuốc chống viêm không phải corticoid). Những người dùng kinh niên loại thuốc này có nguy cơ bị đau tim và tai biến mạch máu não ( heart attack và strokes) và loét bao tử, chảy máu bao tử và ruột cao hơn người thường. Uống kèm thuốc ức chế bơm proton như omeprazole (Prilosec, thuốc giảm axit bao tử) có thể giảm bớt các biến chứng về tiêu hóa của NSAID. Nếu dùng acetaminophen (Tylenol) có thể tránh những phản ứng phụ trên nhưng dùng nhiều quá có thể hại gan. Loại NSAID mới chuyên biệt hơn nữa (COX2 more selective inhibitor), như Celebrex, ít có phản ứng phụ về tiêu hóa hơn nhưng vẫn có tác dụng phụ tim mạch. B) Nếu càng ngày càng đau thêm, hoặc nếu trường hợp phức tạp như chấn thương mạnh, đau kéo dài vài tuần, triệu chứng đường tiểu, đau lúc nằm xuống, có thể bác sĩ sẽ cần đến những biện pháp khác như chích thuốc kháng viêm corticoid vào khoảng bao quanh màng cứng tủy sống (epidural injection), hoặc giải phẫu. Bác sĩ tổng quát chữa và theo dõi tiến trình của bịnh đến một lúc nào đó sẽ thấy cần ý kiến của bác sĩ chuyên về phẫu thuật. Lý tưởng, nếu cả hai bs đều đồng ý phải mổ thì có lẽ hợp lý hơn cả, vì nói chung giới bs giải phẫu thì có khuynh hướng thiên về các biện pháp mổ xẻ hơn, ngược lại các biện pháp thuốc men, chờ đợi, bảo thủ cũng có giới hạn của chúng. Thông thường, bác sĩ giải phẫu có thể : -áp dụng phẫu thuật "mở" (open discectomy), mổ theo lối cổ điển, -hoặc thủ thuật gọi là “vi giải phẫu cắt đĩa” (microdiscectomy). BS rạch đường nhỏ sau lưng, đẩy rễ thần kinh qua một bên, cắt phần đĩa đệm phình ra ngoài (giống như ruột bánh xe lòi ra lỗ hở trong vỏ xe). Bịnh nhân có thể về nhà cùng ngày. -dùng tia laser cắt đĩa bằng nội soi xuyên qua da (endoscopic transcutaneous laser discectomy). Dùng phương pháp nào tùy theo khả năng của bác sĩ, trang bị nhà thương và tình trạng người bịnh. Bịnh nhân có hết đau hay không tùy theo tình trạng rễ thần kinh (nerve root) bị viêm và chèn ép hư hại nhiều hay ít, và có phục hồi hoàn toàn hay không. Nói chung, nếu đau từ mông xuống đùi, chủ yếu do rễ thần kinh bị chèn ép (radicular pain), thì kết quả tốt hơn. Nếu đau nhiều trên lưng (back pain), nguyên nhân có thể phức tạp hơn, giải tỏa chèn ép rễ dây thần kinh có thể giải quyết một nguyên nhân gây đau, nhưng không phải tất cả. Theo một nghiên cứu ở Nhật (Yorimitsu), sau 10 năm,75% bịnh nhân được giải phẫu cắt đĩa lưng áp dụng phẫu thuật "mở" (standard lumbar discectomy), vẫn còn đau lưng ít nhiều (residual back pain), chừng 12% còn đau lưng nhiều. Đối với chứng đau lưng, tập luyện (exercise) có thể hiệu nghiệm hơn. Cuộc nói chuyện này hoàn toàn chỉ mục đích thông tin, bịnh nhân cần tham khảo với bác sĩ của mình. Chúc ông may mắn. References: 1)Systematic Literature Review of Imaging Features of Spinal Degeneration in Asymptomatic Populations http://www.ajnr.org/content/36/4/811.long 2)https://www.aurorahealthcare.org/patients-visitors/blog/10-lifestyle-changes-help-prevent-lower-back-pain Bác sĩ Hồ Văn Hiền 16 tháng 12 năm 2019 Quý vị có thể xem và nghe lại các bài giải đáp trên mạng Internet ở địa chỉ voatiengviet.com Quý vị muốn được giải đáp các thắc mắc về những vấn đề y học thường thức, E-mail đến địa chỉ <>. |