Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?

Trang phục truyền thống của người Ấn Độ là sự tinh tế đầy cầu kỳ. Đây cũng là nét đẹp và là tự hào của người dân Ấn Độ nói chung và phụ nữ Ấn Độ nói riêng. Vậy trang phục phụ nữ Ấn Độ truyền thống có gì đặc sắc?

Theo truyền thống, trang phục cho phụ nữ Ấn Độ không có đẳng cấp, tín ngưỡng có tên gọi là Sari. Sari không chỉ là trang phục truyền thống. Mà đây còn là một nét văn hóa điểm tô thêm phần quyến rũ mang đầy bí ẩn của phụ nữ Ấn Độ.

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?
Ấn tượng trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ

Đặt vé máy bay đi Ấn Độ, không khó để bắt gặp hình ảnh những bộ sari được thiết kế nhiều màu sắc. Tuy nhiên, mỗi màu sắc đều mang một ý nghĩa riêng cho chủ nhân khi mặc chúng.

Phụ nữ Ấn Độ có nhiều nét đẹp đáng tự hào. Điều đó càng được tôn vinh khi họ mặc những bộ y phục truyền thống lộng lẫy với sắc đỏ chủ đạo. Tuy nhiên, tùy theo sắc tộc, địa lý, khí hậu cũng như văn hóa mỗi vùng miền mà trang phục lại khác nhau.

Sari – Trang phục phụ nữ Ấn Độ truyền thống

Vài nét về Sari 

Trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ có tên gọi là Sari. Đó là những bộ váy áo được thiết kế cầu kỳ và tỉ mỉ. Nhằm tôn lên vẻ bí ẩn và nét quyến rũ của người phụ nữ Ấn vốn đã rất xinh đẹp.

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?
Sari – Trang phục phụ nữ Ấn Độ truyền thống

Bộ váy áo này được thiết kế tỉ mỉ, công phu với nhiêu chi tiết được thêu hoàn toàn bằng tay. Mỗi bộ trang phục đẹp là một kiệt tác. Vừa thể hiện vẻ đẹp của kỹ thuật thêu, vừa thể hiện sự khéo léo và tâm huyết của người phục nữ trong từng đường kim,mũi chỉ.

Sari xuất hiện cách đây khoảng 5000 năm trước. Sari truyền thống là kiểu trang phục làm từ các mảnh vải quấn quanh người. Gồm có 2 mảnh một để quấn quanh che lấy người. Và một để quấn ngang eo rồi bắt chéo qua vai và buông rủ xuống mềm mại.

Ý nghĩa của Sari

Khi may bộ trang phục này, điều quan trọng nhất chính là chọn vải và màu sắc của nó. Bởi màu sắc là yếu tố quyết định ý nghĩa của chủ nhân khi mặc nó. Sau đó là đến thiết kế với các họa tiết in và thêu tay để may Sari.

Mỗi bộ Sari dành riêng cho từng đối tượng mặc. Phụ nữ góa chồng thì Sari thường là hai mảnh vải đơn giản màu trắng, không đeo trang sức. Nếu là người đang mang bầu thì sẽ mặc Sari vàng trong 7 ngày. Cô dâu trong ngày cưới thì chọn màu đỏ cho Sari của mình.

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?
Trong lễ cưới cô dâu thưởng mặc sari màu đỏ với nhiều họa tiết nổi bật

Còn những phụ nữ có vị trí không được cao lắm trong xã hội. Thì thường mặc Sari màu xanh lá của đạo Hồi và áo màu xanh da trời. Theo ghi nhận, có tới hơn 80 cách để mặc Sari và được phân loại tùy theo khu vực địa lý, dân tộc nơi đây.

Họa tiết trên vải cũng ẩn chứa nhiều ý nghĩa khách nhau. Họa tiết voi biểu tượng cho nước, cho của cải, sự sinh sôi nảy nở và may mắn. Họa tiết xà cừ biểu tượng cho sự thần thánh và linh thiêng.

Sari trong cuộc sống hiện đại

Ngày nay, mặc dù đã có nhiều nét cách tân, đổi mới. Nhưng Sari vẫn giữ được nét quyến rũ và dấu ấn riêng của mình. Điều này đã góp phần khẳng định vẻ đẹp của các giá trị văn hóa và phụ nữ Ấn Độ.

Bộ trang phục nổi bật không lẫn vào đâu được của người Ấn trở thành niềm tự hào của phái đẹp và đại diện cho nền văn hóa Ấn Độ rực rỡ. Đây là bộ trang phục cầu kỳ phù hợp với khí hậu của Ấn Độ.

Một số loại trang phục phụ nữ Ấn Độ truyền thống khác

Mekhela Sador

Mekhela Sador là trang phục truyền thống của phụ nữ ở bang Assam nằm ở vùng Đông Bắc Ấn. Loại trang phục này đặc trưng bởi 2 mảnh vải rủ khắp cơ thể. Và được kết cấu giống như tên gọi bao gồm:

Mekhela: Mekhela là phần dưới của trang phục. Được làm bằng vải sarong có dạng hình trụ xếp rất rộng. Và được xếp thành các nếp gấp rồi nhắt vào thắt lưng.

Sador: Sador là phần trên, được làm bằng một mảnh vải dài. Một phần đầu vải nhét vào phần trên của Mekhela trong khi phần còn lại bao xung quanh cơ thể.

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?
Mekhela Sador – Trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ vùng Đông Bắc Ấn

Salwar Kameez

Salwar Kameez là một loại trang phục truyền thống của cả nam và nữ ở bang Punjab nằm tại miền Bắc Ấn Độ. Và hiện nay, Salwar Kameez đã dần trở thành một trong những trang phục phổ biển nhất dành cho phái nữ.

Bộ trang phục này bao gồm 2 phần chính. Phần quần rộng thùng thình, hẹp ở mắt cá chân (salwar) và áo dài (kameez). Người phụ nữ cùng thường đeo thêm một chiếc khăn được gọi là Dupatta hay Odani để che đầu hoặc ngực.

Gagra Choli

Gagra Choli trang phục truyền thống của phụ nữ ở các bang phía Tây, Bắc và Tây Bắc Ấn Độ. Trang phục chỉ đơn giản là một chiếc áo ngắn tay và cổ thấp (choli), có thể hở rốn hoặc không. Và một chiếc váy dài thêu hoặc xếp ly (garga).

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?
Gagra Choli – Trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ vùng Tây Bắc Ấn

Các trang phục truyền thống ở Ấn Độ cũng đa dạng không kém gì nền văn hóa lâu đời nơi đây. Vẻ đẹp nhẹ nhàng, tinh tế của con người Ấn Độ chắc chắn sẽ là một trong những lý do khiến bạn sẵn sàng Mua vé máy bay giá rẻ tới Ấn Độ để tham quan, nghỉ dưỡng.

Người dân ở đồng bằng Bắc Bộ – Dựa vào các hình 2,3,4 và vốn hiểu biết của mình, em hãy: Mô tả về trang phục truyền thống của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ. Trang phục của người dân đồng bằng Bắc Bộ…

Dựa vào các hình 2,3,4 và vốn hiểu biết của mình, em hãy: Mô tả về trang phục truyền thống của người dân ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?

GỢI Ý LÀM BÀI

Trang phục của người dân đồng bằng Bắc Bộ gọn gàng, dễ mặc, phù hợp với văn hóa lúa nước. Trang phục của phụ nữ thướt tha, nhẹ nhàng.

Y phục truyền thống Việt Nam, hay Việt Nam y quan, lược tự là Việt phục (越服) là các tên gọi phong cách phục sức của người Việt Nam trong lịch sử. Việt phục gồm y phục của tộc Việt/Kinh và y phục cung đình Áo tứ thân, Áo ngũ thân, Áo trực lĩnh, Áo dài, Áo giao lĩnh, Áo viên lĩnh, Áo tấc, Áo đối khâm, Áo nhật bình,... Một số quan điểm khác tổng quát các dân tộc đã sống trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay từ lâu đời, chẳng hạn như người Chăm-pa, người Khmer và các dân tộc thiểu số khác, v.v... Riêng người Hoa đa phần là người Minh Hương, đến cư trú tại Việt Nam từ thế kỷ 17, trang phục truyền thống của họ vẫn mang đậm dấu ấn Trung Quốc nên có thể được xếp vào nhóm Hán phục thay vì Việt phục.

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?
Việt phục
越服

Việt phục hiện đại

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?

Người Đông Kinh (Đông Kinh nhân) - đồ quyển Thế giới nhân vật (世界人物圖卷)

Tên tiếng ViệtChữ Quốc ngữViệt phụcHán-Nôm越服

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?

Cổn Miện (ngự phục của hoàng đế)

Tên gọi áo truyền thống của phụ nữ ở đồng bằng bắc bộ là gì?

triều phục (Auguste François, lãnh sự Pháp)

Hiện tại do nhu cầu tìm hiểu văn hóa truyền thống tăng cao nên có các hội Việt phục tập trung tại các page trên facebook như Việt phục hội, Việt Nam cổ phục hội, Hội yêu cổ phục Việt - cổ trang Việt Nam.

Trước thời Bắc thuộc, có sách ghi người Việt mặc áo cài bên trái,[1]. Kể từ thời tự chủ thế kỷ thứ 10 trở đi thì áo người Việt đại thể có ba loại căn cứ theo cách cắt cổ áo:[2]

  1. Áo giao lĩnh - tràng Vạt: phía trước cổ là vạt bên trái buộc chéo sang nách áo bên phải. Áo Giao Lĩnh xuất hiện rất sớm ở Việt Nam, có lẽ vào khoảng thời kì Bắc thuộc lần thứ nhất trong thời Đông Hán, sau khi Mã Viện đánh bại khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc đời Trần có chép về chi tiết nhỏ này trong ghi chép Uy Vũ miếu, chuyện của hai vị Phục Ba ở Lĩnh Nam (tức chỉ Việt Nam), ghi rằng: "Nhà Hán có hai ông Phục Ba đối với dân Lĩnh Nam đều có công đức. Ông Phục Ba trước là Bì Li Lộ Hầu, ông Phục Ba sau là Tân Tức Mã Hầu [...] nếu không phải Tân Tức (hầu) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ". Trải qua nhiều thế kỉ biến động, đến tận thời kì nhà Nguyễn, loại áo Giao Lĩnh vẫn tồn tại với vị trí độc tôn với vai trò là dạng thức của các áo lễ phục cao quý, dù áo Ngũ Thân cổ đứng đang chiếm thế thượng phong. Có thể nói, loại áo này mới chính là "áo cổ truyền" chuẩn theo ý nghĩa đối với người Việt vậy.[3]
  2. Áo trực lĩnh: áo cổ thẳng nói chung, bao gồm cả tràng vạt; bổ long
  3. Áo viên lĩnh, hay bàn lĩnh: cổ áo cắt tròn ép sát vòng cổ, cài bên phải.

Đàn bà còn dùng yếm một mảnh vải vuông che phần ngực, một góc cắt lẹm đi rồi đính hai dải vải buộc vào sau gáy. Hai góc trái và phải cũng đính hai dải vải, gọi là dải yếm, dài đủ để quành ra sau lưng rồi buộc lại ở trước ngực. Khi ở nhà làm lụng, người đàn bà có khi chỉ mặc yếm.[4] Khi ra ngoài giao tiếp mới mặc thêm áo.

Ở phía dưới bụng thì ngày xưa đàn ông đóng khố, đàn bà mặc váy. Khố là mảnh vải hẹp mà dài. Người mặc quấn quanh bụng vài vòng rồi chèn từ phía trước bẹn ra sau cài chặt lại. Tích Chử Đồng Tử từ thời Hùng Vương đã nhắc tới việc trang phục dùng khố. Tuy nhiên, khẳng định này vẫn còn tranh cãi.[cần dẫn nguồn]

Thời Lý, Trần

Người Việt mặc loại áo dài cổ tròn (viên lĩnh) 4 vạt, gọi là áo "tứ điên"; dưới thì vận thường đen. Đàn ông đàn bà đều có thể mặc vậy. Ngoài ra, còn có các kiểu khác như: áo giao lĩnh (cổ chéo) ở trên, dưới quây thường bên ngoài hay mặc váy bên trong (với nữ) hoặc mặc áo giao lĩnh hay viên lĩnh trên mặc quần hay khố (với nam). Áo may dài quá đầu gối, cài khuy với áo viên lĩnh, buộc vạt bên phải với áo giao lĩnh. Sứ giả Triệu Nhữ Thích bình rằng lối ăn mặc người Việt thời bấy giờ (1125) không khác người Tống là mấy.[5] Nam đầu đội mũ đinh tự, nhìn như con ốc. Cả nam và nữ, quý tộc và thường dân đều đi đất và nhuộm răng đen.

Thời Lê

 

Dân thời Lê (Đàng Ngoài) - sách Vạn quốc nhân vật chi đồ万国人物图会 (1645). Nữ mặc áo trực lĩnh lộ yếm, đội nón dâu, nam gọt chỏm (đang tang hoặc quân binh)

Áo trực lĩnh phổ biến, dùng làm thường phục trong dân gian (mặc lót trong là 1 viên lĩnh đơn y hoặc yếm). Màu sắc áo cũng đã thành lệ: đàn ông thường dùng áo màu xanh, khi có việc trọng đại thì dùng màu đen, màu thẫm. Người làm ruộng thì dùng màu nâu. Bông vải là hàng chính. Chỉ người sang trọng mới dùng hàng tơ lụa. Quần thì chỉ có hai màu trắng và nâu. Họa hoằn những người giàu có hay già cả mới dùng quần màu đỏ.

Căn cứ theo minh họa trong sách Vạn quốc nhân vật chi đồ (1645) của Nhật Bản thì vẽ người đàn bà đội nón dâu (rộng), tóc dài, mặc váy ở dưới, phía trên mặc áo trực lĩnh, mặc yếm trong. Đàn ông thì búi tóc, mặc một loại rông cài bên phải.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh thế kỷ 18, chúa Nguyễn Võ Vương ở Đàng Trong có sắc quy định y phục trong Nam, nhất là lối ăn mặc của phụ nữ, bỏ váy mà mặc quần, còn áo thì cài khuy, bỏ lối thắt vạt.[1] Đàng Ngoài thuộc chúa Trịnh thì vẫn giữ áo tứ thân buộc vạt. Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là "Áo tứ thân" có thể đã ra đời từ thế kỷ 12. Áo tứ thân hình dạng tương đồng với áo Bối Tử thời Tống[6].

 

Các vị quan thời nhà Nguyễn

Hoàng Bào

Theo sách Dệt Nên Triều Đại, Phan Huy Chú, trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, có chép: "Từ thời Lê Trung Hưng về sau, các lễ lớn như vua lên ngôi, tiến tôn và ban chiếu, đều đội mũ Xung Thiên, mặc áo Hoàng Bào,..." [3].

Áo thời Lê không được ghi chép rõ về hoa văn, hiện vật duy nhất của áo Hoàng Bào thời Lê là từ áo bồi táng của vua Lê Dụ Tông thời Lê Trung Hưng, nhưng hoa văn rồng trên áo này đã theo kiểu "long vân đại hội", một dạng hoa văn rất phổ biến thời Minh mạt. Lúc này, đồ án rồng rất to trước ngực và sau lưng, ở trên vai là hình đồ án rồng tương tự nhưng kích thước nhỏ hơn, khắp xung quanh áo là hình mây cùng ngọn lửa. Có thể thấy, cục diện hoa văn này đã xa thời Minh sơ mà rất gần với thời Minh mạt, cho nên hoa văn cách thức của áo Bào Lê Dụ Tông chỉ biểu thị một giai đoạn Lê Trung Hưng, còn thời Lê Sơ có lẽ vẫn theo kiểu hình Đoàn Long.[3]

 

Dân Đàng Ngoài, Caupchy (Chữ Hán 交趾 Giao Chỉ) (Boxer Codex) (1595) nữ cầm tráp trầu cau (tiện phục khi làm việc trong nhà), nam đội bình đính cân thắt nhuyễn (sĩ phu hay tiện phục thượng lưu)

Thời Nguyễn

Thời Nguyễn thì nam giới cả hai miền Nam Bắc đã quen mặc áo ngũ thân (áo lập lĩnh may bằng năm khổ vải), thân áo dài quá đầu gối, tay áo hẹp. Đàn bà từ Hoành Sơn vào Nam cũng mặc áo ngũ thân nhưng khác áo đàn ông chút ít với thân áo may dài hơn; gấu áo dài quá bắp chân,[2] dưới hạ y mặc quần. Đàn bà từ Hà Tĩnh trở ra vẫn mặc áo tứ thân (giản lược về màu sắc) và mặc váy.

Lễ phục thì vẫn còn dùng áo giao lĩnh, nhưng khoác ra bên ngoài cùng khi hành lễ, gọi là áo thụng hay bổ phục[2]

Áo Nhật bình (xẻ trước ngực) với tay áo rộng là lễ phục khoác ra ngoài của nữ giới quyền quý trong chốn cung đình.[2] Các thiếu nữ trong gia đinh quý tộc khi xuất giá cũng được mặc áo nhật bình nhưng các hoa văn giản lược hơn.

Áo viên lĩnh thời Nguyễn gọi là áo bào, dùng làm lễ phục của các quan đại thần, vương tôn.[2]

 

Ba Biêu, nghĩa quân của Đề Thám đầu đội khăn xếp chữ nhân bảy nếp

Thế kỷ 19 tiện phục

•Người Nam Bộ dùng gấu áo ngắn (che đũng quần), xẻ hai bên hông, gọi là áo bà ba. Ra ngoài mặc áo ngũ thân.

•Đàn bà Bắc Bộ mặc váy, buộc nhuyễn (thắt lưng) và ruột tượng. Ở nhà có khi chỉ mặc yếm. Ra ngoài mặc áo tứ thân hay áo ngũ thân

Về màu sắc thì người dân quê làm ruộng, quần áo hay nhuộm màu nâu hay đen, chỉ những khi nhàn nhã mới mặc màu bạch hay màu tươi như yếm màu hồng, màu đào.[7] Đàn ông mặc quần lá tọa. Quần này may sâu đũng để có thể kéo cạp quần lên cao hay xuống thấp để cho ống quần dài hay ngắn tùy ý; cạp quần buông loà xòa, buộc bằng thắt lưng ở bụng.

Khăn, tóc (cân, mạo, phát)

 

Bức họa đám rước thánh ở Bắc Kỳ, thế kỷ 19, cho thấy lối trang phục đàn ông: thân mặc áo dài, dưới bụng mặc quần, đầu đội khăn xếp

 

Vua Hoằng Tông nhà Nguyễn, đầu đội khăn lượt chữ nhất, bảy nếp

Thời Lý, Trần thì tóc ngắn, đầu trần. Đàn bà để tóc dài hơn đàn ông độ 1 tấc [6].Đàn ông dùng khăn quấn đỉnh đầu kín, không lộ tóc

Thời Lê: khi đối diện người có địa vị cao hơn thì để tóc dài chuốt sáp gọn ra sau lưng.Mọi người chỉ búi tóc chuy kế khi làm điền, làm việc nặng, hoặc đi sứ

Thúc phát của Nữ giới xuất giá sẽ 2 kết (tạo hình như tai thỏ)để cài trâm lên ước phát (1 mảnh vải hoặc búi tóc có trang sức ngọc hoặc kim loại), buộc phần dưới của hợp phát rồi để thả 2 đầu ách ti (扼臂) (lụa buộc kết) xuống.Cùng với châu xuyến và san hô (đã tạo thành hình giống đinh ba) thả 2 đầu song song ach ti

Thúc phát của Bé gái (chưa cập kê) tạo kiểu nha đầu (dài dọc bên tai)để thả 1 phần tóc sau gáy.Khi được tuyển vào cung đình vẫn để nha đầu.Gia nhân kết 1 búi to phía trước (gần như tranh Boxer Codex). Thị nữ cung đình sau tập sự búi hình thỏ.Nữ quan, quý tộc búi ước phát cài trâm

Phụ nữ, đàn ông tùy địa vị (đinh tự cân, bao đính cân, trúc quan), tuổi tác (bức cân, bát tiên cân)sẽ dùng khăn phù hợp theo điển lệ. Quân đội triều đình trước khi đội các loại lạp thì phải đeo trách (mao kê cân) coi như tiện phục

Thời Nguyễn: bé gái kết nha đầu, bé trai đeo khăn ngũ sắc trùm kín tai.

Đàn bà phía nam sông Gianh kết tóc cài trâm, phụ nữ có chồng khi ra ngoài trùm thêm khăn trắng. Hôn lễ thì kết kim ước phát. Đàn ông thường búi tóc, búi tó to được cho là đẹp. Khăn là một mảnh vải gồm 12, 13 vuông vải bằng nhiễu hay lượt khâu lại thật dài dùng quấn quanh đầu, giữ búi tóc cho chặt. Người đội khăn quấn năm hay bảy vòng. Số năm tượng trưng cho ngũ thường và số bảy là bảy vía của người đàn ông. Thế kỷ 20 ta chế khăn đóng sẵn, gọi là khăn đóng hay khăn xếp

Khăn đàn ông thì chỗ chân tóc trên trán có thể xếp thành dạng chữ "nhất" (Hán Tự: 一) hay chữ "nhân" (人)[2] với nếp trái đè lên nếp phải[8] tạo bằng hai vòng quấn đầu tiên.

Đàn bà Bắc Bộ cuộn tóc vào trong khăn rồi quấn thành một vòng quanh đầu.[1] Hình dáng búi tó thông tục gọi là "búi tó củ hành" hay "búi tó củ kiệu".[9] Phụ nữ có chồng khi ra ngoài trùm thêm khăn đen mỏ quạ.

Người Việt còn dùng nhiều loại nón như nón quai thao, nón ngựa, nón cụ

Hài, lí (giầy, dép, guốc)

Sách Giao Châu ký của Trung Hoa thì kể rằng Bà Triệu (thế kỷ thứ 3) chân đi guốc bằng ngà voi.

Người nông thôn thường đi chân đất. Khi có việc thì mới xỏ guốc bằng gỗ hay gộc tre, buộc quai dọc tết bằng dây mây, sau mới dùng quai ngang bằng da. Guốc phụ nữ đẽo thon hơn, sơn đen có hoa văn.Guốc đàn ông to bản, tục gọi là guốc xuồng. Gỗ thường để mộc nguyên màu không sơn phết nên gọi là guốc mộc[10]

Ở thành thị đàn ông lẫn đàn bà còn dùng lí (履) (dép đơn giản nhất chỉ là một lớp da trâu, có khi đan bằng sơ dừa hay bằng cói, không có đế).Người xỏ ngón chân vào lỗ khuyết ở đằng mũi. Ở mu bàn chân có thêm một quai thẳng ngang như chữ "nhất" nên gọi là dép một.[4]

Sang hơn thì đàn bà đi lí đóng bằng bốn năm lớp da trâu. Đầu mũi lí vót nhọn và dùng đanh tre uốn cao vồng lên che hẳn đầu ngón chân, xỏ ngón chân thứ hai[11] vào vòng bằng da ở đằng mũi.Vì loại lí này nặng nên không thể đi nhanh[4]

Thời Lê: ca nương, hoa nương, tân nương, quý tộc dùng tích (潟) (loại hài vếch lên có hoa văn) khi lễ

Thời Nguyễn, Tân nương (Bắc bộ) xỏ guốc cong có 2 đế cao vếch lên (tựa như tích).Phía nam sông Gianh, tân nương xỏ hài (鞋) đầu nhọn

Nữ quý tộc xỏ hài vếch nhọn, cung nhân xỏ guốc sơn son thếp vàng khi Công phục. Nữ quý tộc xỏ hài đế cao (thon hơn của nam) khi tiện phục.

Đàn ông xỏ hài Gia Định. Một đặc danh nữa là dép da Chi Long, gót cao 2–3 cm, mũi ôm lấy mu bàn chân và chạy bọc quành ra đến gót, dép sơn đen hoặc đỏ[12], mặc khi công phục. Hài mõm ếch khi tiện phục

Lễ phục

 

Lễ phục của quan địa phương là áo thụng đính bố tử (補子) ở ngực, đội Đông Pha cân東坡巾

 

Đôi hia thêu, một phần trong bộ triều phục của các quan khi vào chầu vua

Tế lễ Thời Nguyễn, dân gian dùng áo thụng, đội phong cân, thanh niên thôn đội đinh tự mạo (loại giản thể thời Nguyễn)

Tang lễ dùng vải sô trắng, nam thắt khăn trắng chống trượng đi đầu. Nữ chùm mền trắng hình dạng theo tang chế.

Vua quan thì có lễ phục riêng.Gồm đới, xiêm,bì ngoa, Phốc Đầu. Phẩm phục các quan thì tùy theo cấp bậc, dùng màu đỏ hay màu tía.Cung đình thì mặc áo cổn miện

Văn quan dùng bì ngoa mũi tròn, võ quan dùng bì ngoa mũi nhọn

Nữ nhân hoàng tộc dùng phụng tích khi lễ phục

Áo dài được cách tân dựa theo áo lập lĩnh (ngũ thân) tay chẽn. Thập niên 1930 họa sĩ Cát Tường trong nhóm Tự lực Văn đoàn đã cách tân áo dài tân thời theo hướng tây hóa

Áo dài trắng đã trở thành trang phục cho học sinh trung học ở Việt Nam. Một số nữ nhân viên, giáo viên, hướng dẫn viên du lịch cũng mặc áo dài khi làm việc. Ngày nay Hoa hậu trái đất cũng mặc áo dài[13]

 

Trúc Lâm đại sĩ xuất san đồ 竹林大士出山圖 vua Trần Nhân Tông đắc đạo, xuất san (áo tràng vạt, tọa kiệu). Vua Trần Anh Tông (mặc bạch bào) cùng quan (đội toàn hoa quan) nghênh tiếp. Y phục là áo viên lĩnh

  1. ^ a b c Đào Duy Anh
  2. ^ a b c d e f “78. Quốc Phục & Lễ Phục Truyền Thống Việt - Báo Xuân - Việt Báo Văn Học Nghệ Thuật”.
  3. ^ a b c Vietnam Centre. Dệt Nên Triều Đại | Weaving a Realm. NXB Dân Trí, Việt Nam, 2020.
  4. ^ a b c "Y phục cổ truyền..."
  5. ^ Trần Quang Đức. Tr 47
  6. ^ a b Trần Quang Đức
  7. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên TMVT
  8. ^ "Tinh hoa làng nghề khăn xếp..."
  9. ^ Sự, Thiên Hạ (14 thg 5, 2011). “Búi tó củ kiệu và vành khăn vấn ngày xưa của các cụ ở Huế”. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  10. ^ "Đôi guốc dân gian"
  11. ^ nguyen, sưu tầm. “Quan họ Bắc Ninh 1”. danchua.org.
  12. ^ “SO KHOA HOC CONG NGHE - KIEN THUC NONG NGHIEP”. www.haiduongdost.gov.vn.
  13. ^ [1]

  • Đào Duy Anh. Việt Nam văn hóa sử cương. Houston, TX: Xuân Thu, ?. trang 172-6.
  • Trần Quang Đức. Ngàn năm áo mũ. Nhã Nam, 2013.

Áo Nhật Bình: Nguồn gốc, ý nghĩa, giá trị lịch sử và văn hóa

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Trang_phục_cổ_Việt_Nam&oldid=68652305”