Phương pháp chế biến nào sâu đây là để sản xuất thức ăn giá súc giá cầm từ sắn
Khoai mì (Manihot esculenta Crantz) là một loại cây trồng dạng bụi phát triển ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, cho rễ củ giàu tinh bột. Củ khoai mì, hay còn gọi là củ sắn, là nguồn thực phẩm chính cho hơn 800 triệu người trên thế giới (Ecocrop, 2011; Lebot, 2009). Hình thái học Việc sử dụng Hơn 1/3 sản lượng khoai mì được sử dụng cho chăn nuôi (FAO, 2011): Phân bố Điều kiện tăng trưởng tối ưu của khoai mì là nhiệt độ trung bình hàng ngày khoảng 18 – 20°C, lượng mưa hàng năm dao động từ 500mm – 3500mm, bức xạ mặt trời và ánh sáng cao, đất thoát nước tốt và có pH axít. Cây khoai mì có thể chịu được điều kiện sương giá nhẹ ở những vùng cao hơn và điều kiện mây râm ở những vùng đất ở vành đai xích đạo có khí hậu nóng ẩm. Là một loại cây trồng khỏe mạnh, khoai mì chịu được điều kiện đất đai nghèo dinh dưỡng, hạn hán và sâu bệnh (Vongsamphanh et al., 2004), nhưng không phát triển tốt trong môi trường đất sét, đá và sỏi. Khoai mì nhạy cảm với đất ngập úng, đất mặn và kiềm. Cây có thể chịu được mức P thấp nhưng không thể thiếu kẽm. Sản lượng khoai mì củ đã tăng lên đều đặn kể từ những năm , và tăng mạnh từ năm 2000 (tăng 40% trong giai đoạn 1997 – 2007, từ 161 lên 224 triệu tấn). Việc sử dụng trong chăn nuôi cũng tăng từ 25% (1997) lên 34% (2007) (76 triệu tấn). Năm 2010, 52% sản lượng khoai mì được sản xuất ở châu Phi, 33% ở châu Á và 15% ở châu Mỹ Latinh (FAO, 2011). Việc sản xuất khoai mì lát và khoai mì viên làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi bắt đầu ở Thái Lan vào những năm 1960, do nhu cầu của châu Âu tìm kiếm nguồn nguyên liệu cung năng lượng rẻ hơn ngũ cốc, nhu cầu này về sau rất cao ở Châu Âu. Chi phí vận chuyển và những lo ngại của châu Âu về vấn đề ô nhiễm bụi đã thúc đẩy sự chuyển đổi nhu cầu từ các loại khoai mì lát sang dạng ép bánh vào cuối những năm 1960, và với các loại khoai mì viên cứng vào đầu những năm 1980. Khoai mì xuất khẩu sang châu Âu tăng cao cho đến giữa những năm 1980 (Hà Lan nhập khẩu 45 – 50% khoai mì khô trên toàn thế giới), khi Châu Âu thiết lập hạn ngạch nhập khẩu (FAO, 2001a). Vào giữa những năm 2000, thị trường châu Âu dần dần bốc hơi và được thay thế bởi thị trường Trung Quốc, hiện đang nhập khẩu 85% khoai mì khô từ khắp nơi trên toàn thế giới. Hiện nay, Thái Lan vẫn là nước xuất khẩu khoai mì lớn nhất (80% năm 2009), vượt xa Việt Nam (14%) (FAO, 2011). Quy trình xử lý Củ khoai mì dùng trong sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp được thái lát và phơi khô, sau đó thường được nghiền hoặc ép bánh. Công nghệ được sử dụng trong các mô hình sản xuất khoai lát và ép bánh tương tự nhau, và khoai mì lát có thể được sản xuất dựa trên những thao tác kỹ thuật đơn giản ngay tại hộ gia đình hoặc làng xã, cũng như sản xuất với quy mô cơ giới lớn hơn. Việc lựa chọn công nghệ xử lý tùy thuộc vào lượng khoai được chế biến, nguồn nguyên liệu sẵn có và chi phí lao động, cũng như các nguồn năng lượng rẻ tiền sẵn có ở địa phương (Hahn et al., 1992). Bước đầu tiên là rửa, tiếp theo là lột vỏ. Củ khoai mì được cắt lát bằng tay hoặc bằng máy. Các lát khoai có thể có kích cỡ và hình dạng khác nhau, hình chữ nhật, hình khối, độ dày lát khoai tùy theo phương pháp cắt và sấy. Khoai mì có thể được phơi khô tự nhiên hoặc sấy khô nhân tạo. Quá trình phơi khô khoai mì được thực hiện trên sàn bê tông hoặc trên khay. Phơi khô dưới ánh nắng mặt trời là phương pháp tốn kém nhiều công lao động, đòi hỏi khoảng 35 – 40 nhân công/ ha sàn phơi. Khoai mì lát phơi khô trên khay trông đẹp hơn và khô đều hơn so với phơi trên sàn bê tông. Phương pháp sấy khô nhân tạo được thực hiện bằng máy sấy tĩnh hoặc di động, hoặc máy sấy xoay. Khoai lát có thể được bán trực tiếp, nghiền thành bột, hoặc ép thành bánh. Trong quá trình ép bánh, các lát khoai được làm nóng và làm ẩm, sau đó được ép vào máy ép cố định liên tục. Quá trình ép bánh cho ra sản phẩm có độ dày hơn 25-40%, đồng nhất, bền hơn, ít bụi và dễ bảo quản (Hahn et al., 1992). Quản lý nguyên liệu Những đặc tính dinh dưỡng Những hạn chế tiềm ẩn Cây khoai mì có chứa 2 loại glycoside, linamarin (chiếm 80% tổng lượng glycoside) và lotaustralin (chiếm 20%), được kích hoạt bởi enzyme tế bào giải phóng ra hydrogen cyanide (HCN), gây ngộ độc cho vật nuôi. Nồng độ HCN phụ thuộc vào giống cây, điều kiện môi trường, tuổi cây, số lượng thu hoạch (đối với lá) và về bộ phận cây được xem xét. Mặc dù có sự biến đổi liên tục hàm lượng HCN giữa các giống cây (Peroni et al., 2007), các giống khoai mì thường được chia thành 2 nhóm: • Nhóm khoai mì đắng có rễ chứa khoảng 0.02 – 0.03% HCN (% DM cơ bản) và lá tươi chứa khoảng 0.2% HCN (DM cơ bản) (Murugesrawi et al., 2006). Hàm lượng này có thể đạt đến 0.22% DM trong củ tươi (Smith, 1988). Những giống này phải được xử lý trước khi sử dụng làm thức ăn cho động vật. • Nhóm khoai mì ngọt có rể chứa dưới 0.01% HCN và lá tươi chứa khoảng 0.1% HCN (DM cơ bản) (Murugesrawi et al., 2006). Những giống này có thể được sử dụng làm thức ăn thô. Hầu hết các giống khoai mì thương mại thuộc nhóm này. |