Phân tích ý nghĩa nhan đề bài Chữ người tử tù

Lời giải của Tự Học 365

Giải chi tiết:

Ý nghĩa nhan đề:

- Khi in trên tập chí “Tao đàn” có tên “Dòng chữ cuối cùng”: dồn sức nặng vào hai chữ cuối cùng, gợi đến sự kết thúc, sự ám ảnh nặng nề về cái chết của nhân vật

-> Đây không phải chủ đề, tư tưởng mà nhà văn muốn truyền tải -> Không phù hợp.

- Khi in thành sách trong tập truyện “Vang bóng một thời” chính tác giả là người đổi tên thành “Chữ người tử tù”:

+ “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp -> cần được tôn vinh, ngợi ca.

+ “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác -> cần loại bỏ khỏi xã hội

-> Trong nhan đề đứa đựng sự mâu thuẫn

-> Gợi ra tình huống éo le, ngang trái xuyên suốt tác phẩm, khơi gợi sự tò mò của người đọc.

-> Thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

Mỗi 1 nhà văn trên thi đàn VCVN đều khẳng định vị trí của mình bằng 1 sở trường, 1 phong cách. Nếu nhà văn Kim Lân có những trang văn xúc động lòng người khi viết về đề tài nông dân để người thầy của mình là nhà văn Nguyên Hồng nhận định: “Kim Lân là một nhà văn cả đời đi về với đất, với người, với nông thôn thuần hậu”.Nếu như nhà văn Thạch Lam viết truyện không có cốt, dung dị như những bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi thì Nguyễn Tuân lại khẳng định vị trí ấy của mình bằng một phong cách rất riêng mà giáo sư Ng Đăng Mạnh đã gói gọn trong 1 chữ “ngông”, cái ngông của 1 người nghệ sĩ tài ba uyên bác = những đề tài đó là đề tài xê dịch và nhất = đề tài vang bóng. Xuất hiện lần đầu trên thi đàn VCVN năm 1936 nhưng Ng T không có được độ chững chạc như các văn giới cùng thời. Phải đến năm 1940, NXB Tân Dân ấn hành tập truyện“Vang bóng 1 thời” thì tên tuổi của Ng T mới xích lại gần với trái tim của độc giả bạn đọc. 11 truyện ngắn trong tập “VB1T”, có những t/p không chỉ 1 thời vang bóng mà vang bóng đến tận ngày hôm nay. Tiêu biểu phải kể đến đó là t/p “CNTT”. T/p được đưa vào trong chương trình giảng dạy là 1 trong những kiệt tác của nhà văn Ng T nói riêng, của VH lãng mạn VN 1932- 45. Thành công của Ng T trong t/p này là thông qua cảnh cho chữ của NV Huấn Cao với viên quản ngục ở trong ngục tối, nhà văn đã tập trung vào ca ngợi 2 chữ “thiên lương”, ca ngợi cái đẹp, bộc lộ rõ là một nhà văn cả đời đi theo chủ nghĩa duy mĩ, cả đời phụng sự cái đẹp.

Ấn tượng đầu tiên của người yêu văn khi tiếp cận chữ người tử tù của Ng T là nhan đề. Chúng ta biết rằng nhan đề của 1 t/p NT thường chứa đựng nội dung và ý nghĩa. Vì vậy đối với người cầm bút viết văn chân chính khi sáng tác 1 thi phẩm nghệ thuật thường băn khoăn trăn trở cho cách đặt tên nhan đề. Viết về 1 XH tăm tốicủa VN trước CMT8, Tố Hữu đã nói:

“Kiếp người cơm vãi cơm rơi

Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi”

Nhà văn Ngô Tất Tố có tiểu thuyết “tắt đèn”, viết về nạn đói khủng khiếp 1945.Nạn đói như 1 cơn lũ lớn đã không chỉ cuốn trôi đi hàng triệu sinh mạng con người còn làm cho giá trị nhân phẩm của con người trở nên rẻ rúng, chưa bao giờ phẩm giá của người phụ nữ mạt hạng ntn: Hôn nhân vốn là 1 việc hệ trọng, là hạnh phúc thiêng liêng của con người nhưng XH này khác hẳn.Người ta có thể nhặt được người vợ như nhặt 1 cọng rơm cọng cỏ ở ngoài đường. Viết về hoàn cảnh ấy, nhà văn Kim Lân có t/p “vợ nhặt”. “CNTT” của Ng T cũng là 1 t/p với nhan đề giàu ý nghĩa.

Truyện ban đầu có tên = “dòng chữ cuối cùng”. Nếu để “dòng chữ cuối cùng” thì người đọc lại cảm nhận t/p theo hướngcảnh cho chữ của HCtrong truyện không khác gì như việc để lại tài sản cuối cùng của người sắp chết cho người còn sống. Hơn nữa,“dòng chữ cuối cùng” có sức nặng NT dồn đổ cả vào 2 chữ “cuối cùng”. Nó làm t/p có chiều hướng bi quan, nhất là HC, thể hiện sự nuối tiếc trái hoàn toàn với bản tính của ông bởi tính ông Huấn vốn khoảnh. Ông lạnh lùng, thờ ơ, phiêu bạt, bất cần, coi thường cái chết, coi khinh cả tiền bạc quyền thế. Đồng thời, khi để dòng chữ cuối cùng, nhà văn dường như tập trung vào ca ngợi cái tài của người nghệ sĩ, chưa làm toát lên được phong cách NT của Ng Tuân – nhà văn của 2 chữ thiên lương.

Đổi “Dòng chữ cuối cùng” thành “chữ người tử tù”, nhan đề trở nên giàu ý nghĩa.Trước hết, nó bộc lộ ngay được kịch tính của câu chuyện, Nói đến chữ nghĩa là phải nói đến 1 người tài ba học rộng. “Chữ” ở đây không chỉ đơn thuần là tranh chữ, là dáng vẻ bề ngoài của con chữ mà nói như Vũ Đình Liên đó là như “rồng múa phượng bay”. Trái lại,“chữ” ở trong t/p nàygắn liền với 1 đạo lý sống, gắn liền với 1 nhân cách cao đẹp vì có câu nét chữ nết người. Vì lẽ đó, nhà văn không viết là cảnh “viết chữ” mà viết là cảnh “cho chữ”. Đúng như vậy,“cho chữ” là truyền lại 1 đạo sống, 1 lối sống đẹp, truyền 1 lối sống đẹp. Lúc này cái tài đang phụng sự cái tâm. Cùng với cảnh cho chữ, HC đã khuyên quan ngục là phải rời chốn nhơ bẩn này mới giữ được 2 chữ thiên lương trong sáng. Như vậy,với nhan đề CNTT, Ng T không chỉ ca ngợi cái tài của người cầm bút mà còn ca ngợi cả cái tâm của người nghệ sĩ mà nói như đại thi hào Ng Du:

“Chữ tâm kia mới bằng 3 chữ tài”

Đọc kĩ truyện, người đọc hẳn sẽ nhận thấy Ng Tđề cao đồng thời cả cái tâm và cái tài cua người nghệ sĩ bởi nói như chủ tịch HCM: ‘có tài mà không có đức thì là người vô dụng. Có đức mà không có tài là người làm viêc gì cũng khó.”

Thành công của nhà văn Ng T trong “CNTT” là ông đã XD được 1 TH truyện vô cùng đặc sắc. Trong 1 t/p văn xuôi, quyết định sự thành bại của nó không gì khác hơn chính là TH. TH truyện càng đặc sắc bao nhiêu thì t/p càng thành công bấy nhiêu bởi TH là khoảnh khắc về TG, là 1 lát cắt của câu truyện mà ở đó hoàn cảnh truyện, mâu thuẫn truyện, tính cách nhân vật đều được bộc lộ 1 cách sắc nét. Nó vừa giúp cho nhà văn tổ chức được mạch truyện, kết cấu của t/p lại vừa giúp bộc lộ được tính cách của NV 1 cách vô cùng chân thực, sống động vì có ý kiến cho rằng NV trong VH đôi khi thật hơn con người thật.Cái sự chân thực ấy được bộc lộ thông qua TH.“CNTT” của nhà văn Ng T là1 t/p có TH truyệnđộc đáo. TH ấy được bộc lộ thông qua cuộc gặp gỡ giữa 2 con người đó là HC và quản ngục trong 1 hoàn cảnh vô cùng éo le đó là trong tù ngục.

Ở câu truyện này, t/p “CNTT” được XD thông qua một số cảnh chính. Đầu tiên là cảnh viên quản ngục và thầy thơ lại nhận được 1 trát quan ở trên cần phải tiếp nhận 1 toán tử tù mà người cầm đầu là HC. Kế đó nhà văn tập trung vào vài cảnh phụ để mô tả cái nỗi sợ sệt lo sợ của quản ngục và thầy thơ lại. Cùng với đó là thái độ phiêu bạt bất cần, lạnh lùng, thờ ơ của NV HC. Đỉnh điểm của câu chuyện được đẩy lên đó là mâu thuẫn được đẩy cao đến đỉnh điểm, tạo điều kiện để nhà văn cởi trói câu chuyện thông qua cảnh cho chữ của HC ở trong tù ngục. Cảnh cho chữ ấy đã hóa giải toàn bộ kịch tính của câu truyện. Cái cảnh chứa đựng nhiều giá trị hiện thực nhất ấy lại được đặt ở cuối t/p. Vậy kịch tính ở đây là gì?

Kịch tính trong t/p được thể hiện rất rõ ở cuộc gặp gỡ giữa 2 con người HC và quan ngục. 2 con ngườ này đứng từ bề mặt XH thì là đối đầu của nhau. 1 người có 1 chức quan nhỏ đó là chức quan coi ngục nhằm BV triều đình, người kia cầm đầu toán nổi loạn chống lại triều đình. Tuy nhiên nếu đứng từ góc độ cái đẹp, họ lại là chỗ tri âm tri kỉ của nhau. một người có tài viết chữ đẹp, chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có chữ ông Huấn chẳng khác nào có được vật báu treo trong nhà; người kia từ ngày vỡ chữ thánh hiền chỉ có 1 sở nguyện 1 ngày có được chữ cả ông Huấn để treo trong nhà. Như vậy rõ ràng, hoàn cảnh của 2 con người này vô cùng oái oăm, lại gặp nhau trong tù ngục. Ông Huấn cả đời cái chết không sợ, vàng bạc không sợ, không bao giờ vì vàng bạc hay quyền thế ép mình phải ra câu đối bao giờ. Vì vậy, quản ngục khó lòng có thể lấy được chữ của HC. Mà trong mắt HC, QN chẳng qua cũng chỉ là 1 bản đàn mà nhạc luật hỗn độn xô bồ. Như vậy ngăn cách giữa 2 con người là cái hố sâu của XH. Đứng trước hoàn cảnh ấy, QN chỉ được lựa chọn 1 trong 2 con đường. Một là nếu làm tròn chức vụ của 1 viên quan coi ngục, nghĩa là làm tròn bổn phạn của con người XH thì QN phải chà đạp lên cái đẹp, chà đạp lên cái sở nguyện bấy lâu của mình. Hai là muốn giữ được 2 chữ thiên lương, muốn giữ được cái đep thì buôc phải phản bội lại con người XH. Giữa 2 con đường này QN chỉ được lựa chọn1. Chọn cách nào chính là ý tưởng ngòi bút Ng T. Khi chọn 1 đường thì tính cách của NV được bộc lộ. Là 1 nhà văn cả đời chỉ phụng sự cái đẹp, lẽ đương nhiên Ng T đã để cho QN lựa chọn con đường thứ 2, nghĩa = phản bội lại con người XH để giữ được 2 chữ thiên lương trong sáng. Với điều này, QN được ví là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ.

Với cảnh cho chữ, Ng T đã cởi trói mâu thuẫn truyện, mọi kịch tính của câu chuyện đều được hóa giải. Trong truyện, HC vốn là 1 người coi thường cái chết, coi khinh đồng tiền, không bao giờ có thể dùng quyền lực, tiền bạc để ép ông cho câu đối. Điều này được thể hiện rõ trong câu văn: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ…” Cả đời ông cho chữ có 3 người đều là chỗ tri kỉ tri âm. HC nổi tiếng là người khoảnh cho chữ. Hơn nữa, cần phải khẳng định Ng T nhắc đến cảnh cho chữ trong trong truyện mà không phải cảnh viết chữ thông thường bởi nói đến cảnh cho chữ là phải nói đến 2 đối tượng: người cho chữ và người nhận chữ. Bên cạnh người cho chữ, người nhận chữ cũng phải hiểu được giá trị, ý nghĩa của con chữ. Đó là giá trị NT, giá trị tinh thần mà khong phải ai cũng hiểu được. Như vậy, thông qua cảnh cho chữ, Ng T muốn đề cao giá trị tinh thần – tài sản thiêng liêng của con người. Mặc dù không sợ cái chết, coi thường tiền bạc, quyền thế nhưng HC lại rất trân trọng “tấm lòng trong thiên hạ”. Sau khi nghe những giãi bày của thầy thơ lại về sở nguyện của quản ngục bấy lâu nay, HC đã nhận thấy quản ngục là 1 tấm lòng trong thiên hạ, là “1 thanh âm trong trẻo chen vào giữa 1 bản đàn mà nhạc luật hỗn độn xô bồ”. Điều này được thể hiện rõ qua câu nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.”

Nhận thấy thầy quản là 1 tấm lòng trong thiên hạ, HC đã đem tấm lòng của mình ra để đôi đãi với 1 tấm lòng. Thế là cảnh cho chữ đã diễn ra tron ngục tối. Cảnh cho chữ của HC trong tù ngục là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Trước hết đó là không gian và địa điểm cho chữ. Các bậc tao nhân mặc khách xưa thường cho chữ ở nơi thư phòng, trà thất, những nơi trang nghiêm mà đi kèm với nó là trăng, hoa, rượu. Đại thi hào Ng Du đã từng viết:

“Khi nâng chén rượu, khi cuộc cờ

Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên”

Thế nhưng ở đây cảnh cho chữ lại diễn ra trong phòng giam ẩm thấp, bẩn thỉu, hôi hám, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Những có lẽ cảnh cho chữ được gọi là chưa từng có xưa nay là do chủ thể đối tượng cho chữ và nhận chữ. AS đỏ rực của 1 bó đuốc tẩm dầu chiếu rị 3 đầu người đang chăm chú trên 1 tấm lụa bạch. Đó được xem như 1 bức tượng đài của cái đẹp. Người cho chữ là 1 tử tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang thảo từng nét chữ rồng múa phượng bay trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người nhận chư dù có chức quyền nhưng 1 người thì tay run run bưng chậu mực, người kia lại khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu những ô chữ đặt trên phiến lụa. Cả 3 nhân vật này đều đang phụng sự cái đẹp. Trước cái đẹp, ranh giới địa vị và xã hội đã bị đảo lộn, xóa mờ. Từ đó, Ng T đã có 1 KN về cái đẹp cho mình: cái đẹp phải cảm hóa được lòng người.

Như 1 lẽ thường tình, 1 người biết được cái chết và giờ chết dễ bị sa vào tâm trạng hoảng loạn.Với HC, ông vẫn bộc lộ rõ sự uy nghi đường bệ khi thảo những nét chữ rồng bay phượng múa. Đó là những nét chữ cuối cùng của cả 1 đời tung hoành ngang dọc. Cho chữ trong tù trong TH này, HC còn truyền lại 1 đạo sống, 1 nhân cách cao đẹp. HC đã khuyên quan ngục là phải rời chốn nhơ bẩn này mới giữ được 2 chữ thiên lương trong sáng. Nếu ở đây Ng T ca ngợi khí phách của HC thông qua cảnh cho chữ, ngòi bút của ông lại đi sâu vào để ca ngợi 2 chữ thiên lương trong sáng, nghĩa là Ng T đã dành 1 vị trí quan trọng trong t/p của mình để ca ngợi, đề cao chữ tâm – vẻ đẹp chân chính của con người. Thông qua cảnh cho chữ, Ng T muốn khẳng định cái đẹp là bất tử với cuộc đời. Cái đẹp thẳng hoa, nổi loạn ngay trong lòng cái ác, trong ngục tối. Hành động cho chữ của HC không phải là hành động trả ơn nghĩa đối với quản ngục trong những ngày cuối đời của mình trong nhà ngục tỉnh Sơn này mà thông qua cảnh cho chữ, HC muốn truyền lại 1 đạo làm người, nghĩa là cái tài đã được chuyển hóa thành cái tâm,là phương tiện để chuyển tải cái tâm đến với độc giả. Với ý nghĩa này, “CNTT” là 1 trong những t/p còn vang bóng mãi đến tận mai sau, Ng T thực sự là “1 định nghĩa về cái đẹp” – nói như Ng Minh Châu.

loading...