Phân tích hùng vĩ của sông đà không phải chỉ có thác đá

Bài làm

Một người nghệ sĩ tài năng là một nhân cách “xấc xược” muốn tranh quyền tái tạo với tạo hóa. Anh ta không chịu hạ mình nói những cái người khác đã nói, tả những điều người khác đã tả mà muốn “tạo lập” ra một thế giới riêng mang màu sắc của mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn như thế. Có thể thấy rõ được phong cách Nguyễn Tuân qua đoạn văn trích “Người lái đò Sông Đà”:

“Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác…. mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”

Tùy bút “Người lái đò Sông Đà” là kết quả viên mãn của chuyến đi thực tế ở vùng Tây Bắc để tìm “chất vàng mười” của thiên nhiên và con người. Nguyễn Tuân được coi là một định nghĩa sống về “người nghệ sĩ” trong “cái râu cái tóc ông chẳng giống ai” đến ý thức trách nhiệm với nghề, ý thức sáng tạo. Và một sự độc đáo đã đi tìm cái độc đáo. Đó là Nguyễn Tuân với tập bút kí “Sông Đà”. Ông đến với sông Đà như một người bạn tương đắc. Sự dữ đã dội, mãnh liệt và thơ mộng tuyệt vời của nó thu hút ông hết sức mạnh mẽ. Ngòi bút của ông như nở hoa. Ông đã được thỏa chí tung hoành trong mội trường của chính mình.

Toàn bộ đoạn văn đã dựng lên bức tranh hùng vĩ, tráng lệ về Đà giang. Đó là vẻ đẹp nơi vách đá bờ sông với “vách thành”. “Vách thành” chứ không phải là “thành vách” bởi “vách thành” mới chính là vách đá kiên cố, đồ sộ, uy nghiêm, chứa đầy kỉ bí mật của thành cao hào sâu. Lê Đạt từng chia sẻ: “Tôi tôn trọng những nhà văn sinh sự với văn chương để tạo ra sự sinh của ngôn ngữ”. Nguyễn Tuân chính là người như thế. Ở vách thành ấy, đúng ngọ mới có mặt trời, giữa mùa hè mà cũng thấy lạnh. Lạnh bởi khi đá sắc như dao, hay vì dưới chân toàn là nước, hơi nước bị cầm tù ngàn năm dưới núi đá mà sinh âm u? Câu thơ tạo nên cảm giác gai ghê, ớn lạnh như đang lạc vào một trận đồ át quái của sông nước Đà giang khúc thượng nguồn. “Đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên cái tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện” càng tô thêm cảm giác lạnh lẽo, tối tăm như chưa có hơi ấm của sự sống.

Vẻ đẹp hùng vĩ sông Đà còn được tô lên bằng ghềnh thác sông Đà. Câu văn “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được qua đấy.” với nhịp nhanh, sử dụng một loạt những động từ mạnh và điệp từ gợi lên sự dữ dội đến hung bạo của con sông. Lũ cuồng quân đang gọi nhau ca khúc cuồng ca còn sông Đà như người phù thủy điều khiển lũ âm binh để làm khó người đi qua đó.

Và cuối cùng là vẻ đẹp hùng vĩ qua hình ảnh của những chiếc hút nước. Hình dạng của chúng rất đa dạng từ giếng bê tông, hay cửa cống cái; âm thaanh: “kêu như cống cái bị sặc”, tưởng như có một thủy quân tham lam đang nuốt trọn con mồi quá khổ. Sức hủy diệt của nó làm cho những bè gỗ khỏng lồ, con thuyền lanh lợi dễ dàng trở thành miếng mồi ngon của nó, huống chi là con người.

Nguyễn Tuân bao giờ cũng thế: sống hết mình với những gì được ông mô tả. Sự vật có được hiện lên với đầy đủ đặc tính, “khí chất” của nó thì văn mới lên hết chất “Nguyễn” và ngược lại, văn càng lên chất “Nguyễn” thì sự vật càng nổi hình, nổi nét, cựa quậy, xôn xao. Người nghệ sĩ ấy luôn quan niệm rằng: “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp các hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường” [Thạch Lam] nên ông luôn nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hóa thẩm mĩ, nhìn con người dưới góc độ tài hoa nghệ sĩ. Đặc biệt, ông không ưa những màu nhàn nhạt, không thích cái đẹp lưng chừng. Tất cả đối tượng của Nguyễn Tuân đều là những tính cách phi thường, phong cảnh tuyệt mĩ. Đã hùng vĩ phải đến kì vĩ, hung bạo phải đến tuyệt đỉnh. Tất cả được thể hiện qua ngòi bút tài hoa, uyên bác và vốn từ vựng phong phú, cách sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Tuân. Chính vì thế ông đã lựa chọn thể loại tùy bút. Lối văn tùy bút phóng túng, miên man, bất tận với nhiều so sánh độc đáo, táo bạo, đầy chủ quan nhưng lại hết sức có lí. Cảm thức ngôn ngữ của Nguyễn Tuân cực kì nhạy bén khi liên tiếp sử dụng những từ chỉ thời gian như: “đã thấy, rồi lại, thế rồi…” cùng những so sánh tuyệt đối chính xác để truyền tới tâm trạng chờ đợi phấn khích, căng thẳng và cảm giác mạnh mẽ trước một không gian đột ngột mở òa ra rất hùng tráng. Với độc giả, khi chưa đọc hết đoạn văn, khi chưa “thấy” hết những gì sẽ tuần tự hiện lên với những con chữ, họ đã được nhà văn tạo trước cho một cảm giác toàn khối hết sức gần gũi hiện thực. Điều cốt lõi của tính tạo hình trong văn Nguyễn Tuân chính là chỗ đó.

Văn học nằm ngoài quy luật băng hoại của thời gian chính bởi vì nó không chấp nhận những thứ sao chép giản đơn hay lặp lại. Luôn làm mới mình, làm đẹp mình và độc đáo mới giúp cho nghệ thuật tồn tại, như cách mà những tác phẩm Nguyễn Tuân còn bên bạn đọc đến ngày nay.

Trang Chủ Diễn Đàn > E - CÁC CÂU LẠC BỘ > CLB Học Tập > Học Online >

1. Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận về một đoạn trích văn xuôi        

   Có đủ các phần mở bài, thân bài, kết bài. Mở bài nêu được vấn đề, thân bài triển khai được vấn đề, kết bài kết luận được vấn đề.       

  1. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận

           Vẻ đẹp hình tượng sông Đà ở đoạn trích; nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân

  1. Triển khai vấn đề nghị luận thành các luận điểm; thể hiện sự cảm nhận sâu sắc và vận dụng tốt các thao tác lập luận; kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng. Cụ thể:

3.1.Mở bài: 0.25

- Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ chân chính suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông có một vị trí quan trọng và đóng góp không nhỏ cho văn học Việt Nam hiện đại: thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao; làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc; đem đến cho nền văn xuôi hiện đại Việt Nam một phong cách tài hoa, độc đáo.

- Tuỳ bút Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám 1945.

-Vẻ đẹp dòng sông Đà thể hiện rõ cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân sau cách mạng.

3.2.Thân bài: 3.50

  1. Khái quát về tuỳ bút, đoạn trích: 0.25 đ

- Về hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, nội dung, nghệ thuật của tác phẩm;

Người lái đò Sông Đà rút trong tập tùy bút Sông Đà, là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân; đó là chuyến đi để tìm kiếm “ chất vàng mười trong tâm hồn Tây Bắc” từ những người lao động bình dị, vô danh.

- Vị trí, nội dung đoạn trích.

Tùy bút Người lái đò Sông Đà – một trong những tác phẩm xuất sắc của văn xuôi hiện đại Việt Nam, Nguyễn Tuân đã in dấu tâm hồn mình, để lại những trang tuyệt bút về con sông hùng vĩ, linh thiêng của miền Tây Bắc đặc biệt được thể hiện qua đoạn trích …“ hùng vĩ… cốc pha lê nước khổng lồ vừa rút lên cái gậy đánh phèn.

  1. Phân tích vẻ đẹp của sông Đà trong đoạn trích: 2.5đ

b.1. Về nội dung:Vẻ hung bạo, dữ dằn của sông Đà qua đoạn trích [2.0đ]

-Cảnh đá bờ sông “dựng vách thành”

+ Hình ảnh “vách thành” đã phần nào thể hiện sự vững chãi thâm nghiêm và những sức mạnh bí ẩn đầy đe dọa của vách núi như thành cao, vực thẳm, như hào sâu.

+ Tác giả đã dùng những chi tiết tưởng như bâng quơ, ngẫu nhiên nhưng lại có giá trị gợi tả gián tiếp độ hẹp của dòng sông, độ cao của vách đá, như mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Đến việc đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách.

+ Cách so sánh vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu – động từ “chẹt” và hình ảnh so sánh với cái “yết hầu” đã đem đến ấn tượng mãnh liệt cho người đọc về độ hẹp của lòng sông khi bị vách đá chèn ép tới nghẹt thở.

+ Miêu tả thế giới sự vật thông qua cảm giác rất quen thuộc của Nguyễn Tuân đã được thể hiện độc đáo khi nhà văn tạo ra ấn tượng tương phản của xúc giác với chi tiết ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, tạo ra ấn tượng của thị giác khi lấy hè phố để miêu tả mặt sông, lấy nhà cao gợi tả vách đá, truyền cho người đọc những hình dung về cái tăm tối lạnh lẽo đột ngột khi con thuyền đi từ ngoài vào khúc sông có đá hun hút dựng vách thành qua hình ảnh so sánh về một khung cửa sổ nào trên cái tầng thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện.

- Mặt “ghềnh Hát Loóng”:

+ Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm… Câu văn miêu tả có nhịp ngắn, nhanh, dồn dập kết hợp với các thanh sắc, những từ ngữ điệp nối tiếp thế chỗ nhau trong các cụm từ ngữ đã tái hiện sinh động quần thể những sức mạnh thiên nhiên dữ dội nhất của nước, sóng, gió, và đá sông Đà, trong đó cuồn cuộn những con sóng dữ vút lên, chồm lên nhau, trùng điệp ghê rợn trên mặt ghềnh.

+Từ láy “gùn ghè” và hình ảnh so sánh mang đậm sắc thái nhân hóa về việc sóng gió trên mặt ghềnh Hát Loóng lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy đã thể hiện sinh động sự hung hãn lì lợm và cuồng bạo của dòng sông. Qua từ “nợ xuýt”, nhà văn đóng góp thêm vào Từ điển tiếng Việt một từ mới mẻ, độc đáo [ nợ không có vẫn đòi, không đòi bằng tiền, bằng tình mà đòi bằng mạng sống của con người]

-Những “cái hút nước” trên sông Đà

+Một loạt những so sánh sống động, đặc sắc khiến hút nước thiện ra trong hình ảnh như một cái giếng bê tông xoáy tít, trong âm thanh của một cửa cống cái bị sặc, trong cả hình ảnh và âm thanh như mặt nước bị rót dầu sôi.

+Từ láy tượng hình “lừ lừ”, từ láy tượng thanh tăng nghĩa “ặc ặc” cùng những chi tiết so sánh mang sắc thái nhân hóa khi miêu tả nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, tất cả góp phần làm hiện ra cả hình ảnh và âm thanh của hút nước như một quái vật đang giận dữ tới ghê người.

+Hình ảnh liên tưởng đến quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực đã giúp người đọc dễ dàng hình dung ra cảm giác hãi hùng nếu phải đi thuyền men gần hút nước đáng sợ. Nhà văn còn phát huy trí tưởng tượng phong phú khi hình dung ra những bè gỗ to lớn nghênh ngang bị “lôi tuột xuống” đáy hút nước, hay chiếc thuyền bị hút trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi... tan xác ở khuỷnh sông dưới.

+Không dừng lại trong những hình dung tưởng tượng về cái bè gỗ hay một con thuyền bất hạnh nào đó phải làm mồi cho hút nước, Nguyễn Tuân còn tạo ra một giả tưởng li kì dẫn dụ người đọc vào trò chơi cảm giác, kéo họ xuống tận đáy hút nước xoáy tít, sâu hoắm cùng một anh bạn quay phim táo tợn. Hút nước vì thế đã được miêu tả bằng thủ pháp điện ảnh, hất ngược từ dưới lên một cách sống động, truyền cảm từ hình khối của một thành giếng xây toàn bằng nước cho đến màu sắc của dòng sông “nước xanh ve”, và thậm chí cho đến cả cảm giác sợ hãi rất chân thực của con người khi phải đứng trong lòng một khối pha lê xanh như sắp vỡ tan, bất cứ lúc nào cũng như sắp đổ ụp vào người.

-Nhận xét: Tả sự hung bạo của sông Đà, tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh một dòng sông ở miền đất Tây Bắc hoang sơ hùng vĩ mà nhằm làm nổi bất sông Đà như một biểu tượng về sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, đất nước.

b.2. Về nghệ thuật: [ 0.5]

-Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và rất thú vị;

-Từ ngữ phong phú, sống động, tinh tế, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao;

-Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình...

- Ngôn ngữ giàu tính tương phản, đối lập.

  1. Nhận xét cách nhìn mang tính phát hiện về dòng sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân. 0.75đ

 - Biểu hiện: Nhà văn nhìn Sông Đà không còn là con sông vô tri, vô giác mà là con sông có linh hồn, có cá tính như con người: hung bạo, dữ dằn, hùng vĩ; khám phá vẻ đẹp của dòng sông ở góc độ địa lí nhưng đậm chất văn chương, kết hợp với nhiều ngành nghệ thuật khác như âm nhạc, hội hoạ, điện ảnh đầy ấn tượng.

- Ý nghĩa: Qua hình tượng Sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu mến tha thiết đối với thiên nhiên đất nước. Với ông, thiên nhiên cũng là một tác phẩm nghệ thuật vô song của tạo hóa. Cảm nhận và miêu tả Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự tài hoa, uyên bác, lịch lãm và độc đáo ở phong cách, tri thức sâu sắc và phong phú, tâm hồn phóng khoáng yêu tự do và thiên nhiên đất nước, luôn nhìn thấy ở thiên nhiên những vẻ đẹp chưa từng có và tiếp cận thiên nhiên ở những góc nhìn độc đáo. Hình tượng Sông Đà là phông nền cho sự xuất hiện và tôn vinh vẻ đẹp của người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3.3.Kết bài: 0.25

     - Kết luận về nội dung, nghệ thuật vẻ đẹp hình tượng con sông Đà;

     - Nêu cảm nghĩ về vẻ đẹp thiên nhiên và đóng góp của nhà văn sau cách mạng.

            Có cách diễn đạt sáng tạo, thể hiện suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ về vấn đề nghị luận.

  1. Chính tả, dùng từ, đặt câu

            Đảm bảo quy tắc chính tả, dùng từ, đặt câu

Video liên quan

Chủ Đề