Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước

1. Độc quyền, nguyên nhân hình thành độc quyền

Độc quyền:

  • Theo nghiên cứu của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, Các dự báo rằng: “tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất đihnh, lại dẫn tới độc quyền”.

  • Độc quyền là sự liên minh giữa các doanh nghiệp lớn, có khả nawg thâu tóm việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, có khả năng định ra giá cả độc quyền, nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.

  • Trong nền kinh tế thị trường, độc quyền có thể được hình thành một cách tự nhiên, cũng có thể được hình thành bởi ý chí của nhà nước tạo ra một tổ chức độc quyền. Nguyên nhân hình thành độc quyền: Từ cuối TK XIX đầu TK XX, trong nền kinh tế thị trường các nước tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện các tổ chức độc quyên. Độc quyền được hình thành do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là:

  • Do sự phát triển của lực lượng sản xuất: Do tính chất đặc biệt của ngành có lợi tức tăng dần theo qui mô đã khiến việc có nhiều hàng cùng cung cấp một dịch vụ trở nên không hiệu quả và hãng nào đã có mặt trong thị trường từ trước thì có thể liên tục giảm giá khi mở rộng sản xuất biến đó thành một hàng rào hữu hiệu ngăn cản sự xâm nhập thị trường của những hãng mới.

  • Do cạnh tranh: Quá trình cạnh tranh sẽ làm cho những doanh nghiệp nào kém hiệu quả, có những quyết định kinh doanh sai lầm sẽ bị những doanh nghiệp khác làm ăn hiệu quả hơn thôn tính, chiếm lĩnh thị phần và rốt cuộc sẽ bị đào thải ra khỏi cuộc chơi. Trong trường hợp cực đoan nhất, nếu tất cả các doanh nghiệp khác đều bị một doanh nghiệp duy nhất đánh bại thì rốt cuộc, cạnh tranh tự do đã để lại một doanh nghiệp duy nhất trên thương trường và doanh nghiệp đó đương nhiên có được vị thế độc quyền.

  • Do khủng hoảng và sự phát triển của hệ thống tính dụng: Cuộc khủng hoảng kinh tế 1873 trong toàn thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản doanh nghiệp vừa và nhỏ; các doanh nghiệp lớn còn tồn tại dẫn tới hình thành các doanh nghiệp độc quyền. Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

  1. Độc quyền nhà nước
  • Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là chủ nghĩa tư bản độc quyền có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước về kinh tế, là phương thức kết hợp giữa sức mạnh của tư bản độc quyền với sức mạnh kinh tế của nhà nước.

đã đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền kinh tế.

Ví dụ: Luật Cạnh tranh do Quốc Hội ban hành vào tháng 12 năm 2004 .Và các luật chống độc quyền và cạnh tranh một số ngành được ban hành nhằm hạn chế sự lũng loạn trong nề kinh tế để duy trì nền kinh tế phát triển một cách ổn định.

  • Thứ hai, Do sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản không thể hoặc không muốn kinh

doanh đầu tư vì vốn đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm, ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, giáo dục,...

=> Từ đó nhà nước đứng ra đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó và tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành có lợi khác.

  • Thứ ba, Do sự thống trị của độc quyền tư nhân đã làm gia tăng sự phân hóa giàu- nghèo, làm sâu sắc thêm sự mâu thuẫn giai cấp trong xã hội.
  • Trong điều kiện như vậy đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách xã hội để xoa dịu những mâu thuẩn đó, như: chính sách trợ cấp thất nghiệp, phát triển phúc lợi xã hội,...để duy trì sự ổn định chế độ chính trị và trật tự xã hội.

Ví dụ: Tại Việt nam khi người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội thì khi người lao động bị mất việc hoặc chưa tìm được việc thì người lao động sẽ được nhận mức trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân lương hàng tháng khi đóng bảo hiểm thất nghiệp trong vòng 6 tháng.

thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền về cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.

  • Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

  • Độc quyền nhà nước trong chủ nghĩa tư bản dã biến nhà nước thành một tập thể tư bản, nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế, nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền, duy trì sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

  • V.Iênin chỉ ra rằng: "Bọn đầu sỏ tài chính dùng một mạng lưới dày đặc những quan hệ lệ thuộc để bao trùm hết thảy các thiết chế kinh tế và chinh trị,... đó là biểu hiện rõ rệt nhất của sự độc quyền ấy". Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh

doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù....

  • Ph.Ăngghen cũng cho rằng: nhà nước đó vẫn là nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lý tưởng và nhà nước ấy càng chuyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu. Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không phải là mội chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.  TÓM LẠI NÈ
  • Nguyên nhân hình thành : nguyên nhân cơ bản là sự phát triển của LLSX được XH hóa cao dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho QHSX TBCN phải biến đổi cho phù hợp, sự can thiệp của nhà nước tư sản vào quá trình tái SX XH là biểu hiện của sự phù hợp đó, nó giúp cho CNTB tiếp tục tồn tại và phần nào thích nghi, phát triển. Tuy nhiên nó vẫn không thể vượt qua giới hạn của CNTB. Không những thế, một mặt nó thể hiện mâu thuẫn cơ bản của CNTB ngày càng gay gắt, mặc khác nó báo hiệu thời kỳ quá độ lên một xã hội mới tiến bộ hơn.
  • Bản chất của CNTB độc quyền nhà nước : là giai đoạn phát triển cao của giai đoạn độc quyền. Nó vẫn mang đầy đủ bản chất kinh tế của CNTB. Nhà nước tư sản đã trở thành công cụ kinh tế để phục vụriêng cho lợi ích của thiểu số giai cấp tư bản độc quyền. Những biểu hiện của nó càng làm rõ hơn sự phụ thuộc của nhà nước tư sản vào độc quyền và là công cụ phục vụ cho lợi ích của tư bản độc quyền nhằm cứu nguy cho sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản.

Nguyên nhân hình thành độc quyền nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là gì?

Độc quyền nhà nước mang tính phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Trong chủ nghĩa tư bản, độc quyền nhà nước hình thành trên cơ sở cộng sinh giữa độc quyền tư nhân, độc quyền nhóm và sức mạnh của nhà nước, sự chi phối của tầng lớp tư bản độc quyền đối với nhà nước.

Độc quyền nhà nước ra đời khi nào?

Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX thì chủ nghĩa tư bản độc quyền đã xuất hiện xuất hiện. Độc quyền là vị trí thống trị một ngành hoặc một lĩnh vực của một công ty, đến mức loại trừ tất cả các đối thủ cạnh tranh khả thi khác. Các công ty độc quyền thường không được khuyến khích ở các quốc gia có thị trường tự do.

Chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là gì?

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế về thể chế thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và ...

Các công ty độc quyền được hình thành như thế nào?

Độc quyền thường Do sở hữu được một nguồn lực lớn: điều này giúp cho người nắm giữ có vị trí gần như trọn vẹn trên thị trường. Một ví dụ điển hình là Nam Phi được sở hữu những mỏ kim cương chiếm phần lớn sản lượng của thế giới và do đó quốc gia này có vị trí gần như đứng đầu trên thị trường kim cương.