Luyện tập về kỉ năng đọc văn bản

Như vậy, quá trình kiểm tra, đánh giá học sinh trong môn Ngữ văn đã có những đổi mới quan trong với những yếu tố đặc trưng, bản chất như sau:

MÃ ĐỀ 1MÃ ĐỀ 2Mục tiêu giáo dụcMục tiêu dạy học được mô tả không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá được.Kết quả học tập cần đạt được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được; thể hiện được mức độ tiến bộ của học sinh một cách liên tụcNội dung giáo dụcViệc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chuyên môn, không gắn với các tình huống thực tiễn. Nội dung được quy định chi tiết trong chương trìnhLựa chọn nội dung nhằm đạt được kết quả đầu ra đã quy định, gắn với các tình huống thực tiễn. Chương trình chỉ quy định những nội dung chính, không quy định chi tiếtPhương pháp
dạy họcGiáo viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học. Học sinh tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn– Giáo viên chủ yếu là người tổ thức, hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng sự phát triển khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp…
– Chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực; các phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành.Hình thức dạy họcChủ yếu dạy học lý thuyết trên lớpTổ chức hình thức học tập đa dạng chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khoá, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và họcĐánh giá kết quả học tập của học sinhTiêu chí đánh giá được xây dựng chủ yếu dựa trên sự ghi nhớ và tái hiện nội dung đã họcTiêu chí đánh giá dựa vào năng lực đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong quá trình học tập, chú trọng khả năng vận dụng trong các tình huống thực tiễn.

MÃ ĐỀ 1- Xây dựng theo chương trình giáo dục định hướng nội dung học:
Chương trình dạy học truyền thống có thể gọi là chương trình giáo dục “định hướng nội dung” dạy học hay “định hướng đầu vào” (điều khiển đầu vào). Đặc điểm cơ bản của chương trình giáo dục định hướng nội dung là chú trọng việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo các môn học đã được quy định trong chương trình dạy học. Những nội dung của các môn học này dựa trên các khoa học chuyên ngành tương ứng. Người ta chú trọng việc trang bị cho người học hệ thống tri thức khoa học khách quan về nhiều lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, càng lên khối lớp cao hơn việc tiếp nhận trở nên bất cập. Do áp lực thi cử, hiện nay, tình trạng giáo viên “đọc hộ”, “hiểu hộ”, “cảm thụ hộ” học sinh diễn ra khá phổ biến. Trong các giờ đọc hiểu văn học, học sinh thường nghe và ghi chép lại những bài giảng của giáo viên hơn là tự mình cảm thụ, tìm hiểu, khám phá văn bản. Hơn nữa, văn bản được đọc hiểu chủ yếu là văn bản văn học, có rất ít văn bản nhật dụng được đưa vào chương trình, SGK. Việc đánh giá kỹ năng đọc của học sinh hiện nay thường diễn ra dưới hai hình thức: Kiểm tra miệng (yêu cầu học sinh nhắc lại một nội dung nào đó của bài học đã ghi chép trong vở) và kiếm tra viết (viết về một vấn đề nào đó của văn bản đã học). Hình thức này chưa đánh giá được năng lực đọc hiểu các loại văn bản khác nhau của người học.
Ưu điểm của chương trình dạy học định hướng nội dung là việc truyền thụ cho người học một hệ thống tri thức khoa học và hệ thống. Tuy nhiên, ngày nay chương trình dạy học định hướng nội dung không còn thích hợp, trong đó có những nguyên nhân sau”
– Ngày nay, tri thức thay đổi và bị lạc hậu nhanh chóng, việc quy định cứng nhắc những nội dung chi tiết trong chương trình dạy học dẫn đến tình trạng nội dung chương trình dạy học nhanh bị lạc hậu so với tri thức hiện đại. Do đó, việc rèn luyện phương pháp học tập ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn bị cho con người có khả năng học tập suốt đời.
– Chương trình dạy học mang tính thụ động và ít chú ý đến khả năng ứng dụng nên sản phẩm giáo dục là những con người mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng động. Do đó chương trình giáo dục này không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và thị trường lao động đối với người lao động về năng lực hành động, khả năng sáng tạo và tính năng động.
MÃ ĐỀ 2 – xây dựng theo chương trình giáo dục định hướng năng lực:
Chương trình giáo dục định hướng năng lực (định hướng phát triển năng lực) nay còn gọi là dạy học định hướng kết quả đầu ra được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Giáo dục định hướng năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học.
Giáo dục định hướng năng lực nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết các tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.
Khác với chương trình định hướng nội dung, chương trình dạy học định hướng năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra, có thể coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Việc quản lý chất lượng dạy học chuyển từ việc “điều khiển đầu vào” sang “điều khiển đầu ra”, tức là kết quả học tập của học sinh.
Chương trình dạy học định hướng năng lực không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Trong chương trình định hướng năng lực, mục tiêu học tập, tức là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực (Competency). Kết quả học tập mong muốn được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được. Học sinh cần đạt được những kết quả yêu cầu đã quy định trong chương trình. Việc đưa ra các chuẩn đào tạo cũng là nhằm đảm bảo quản lý chất lượng giáo dục theo định hướng kết quả đầu ra.
Ưu điểm của chương trình giáo dục định hướng năng lực là tạo điều kiện quản lý chất lượng theo kết quả đầu ra đã quy định, nhấn mạnh năng lực vận dụng của học sinh. Tuy nhiên nếu vận dụng một cách thiên lệch, không chú ý đầu đủ đến nội dung dạy học thì có thể dẫn đến các lỗ hổng tri thức cơ bản và tính hệ thống của tri thức. Ngoài ra chất lượng giáo dục không chỉ thể hiện ở kết quả đầu ra mà còn phụ thuộc vào quá trình thực hiện.
Trong chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực, khái niệm năng lực được sử dụng như sau:
– Năng lực liên quan đến bình diện mục tiêu của dạy học: mục tiêu dạy học được mô tả thông qua các năng lực cần hình thành;
– Trong các môn học, những nội dung và hoạt động cơ bản được liên kết với nhau nhằm hình thành các năng lực;
– Năng lực là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng, mong muốn….
– Mục tiêu hình thành năng lực định hướng cho việc lựa chọn, đánh giá mức độ quan trọng và cấu trúc hoá các nội dung hoạt động và hành động dạy học về mặt phương pháp;
– Năng lực mô tả việc giải quyết những đòi hỏi về nội dung trong các tình huống: ví dụ như đọc một văn bản cụ thể….Nắm vững và vận dụng được các phép tính cơ bản….;
– Các năng lực chung cùng với các năng lực chuyên môn tạo thành nền tảng chung cho công việc giáo dục và dạy học.

  1. Khái quát về kĩ năng và ngữ liệu minh chứng

2.1. Khái quát về kĩ năng
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kỹ năng. Những định nghĩa này thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên môn và quan niệm cá nhân của người viết. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ đích và định hướng rõ ràng.
Kỹ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kỹ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm…giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.
Như vậy, kỹ năng là khả năng của chủ thể thực hiện thuần thục một hay một chuỗi hành động trên cơ sở hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
Bất cứ một kỹ năng nào được hình thành nhanh hay chậm, bền vững hay lỏng lẻo đều phụ thuộc vào khát khao, quyết tâm, năng lực tiếp nhận của chủ thể, cách luyện tập, tính phức tạp của chính kỹ năng đó. Dù hình thành nhanh hay chậm thì kỹ năng cũng đều trải qua những bước sau đây:
– Hình thành mục đích. Lúc này thường thì chủ thể tự mình trả lời câu hỏi “Tại sao tôi phải sở hữu kỹ năng đó?”; “Sở hữu kỹ năng đó tôi có lợi gì?”…
– Lên kế hoạch để có kỹ năng đó. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu về mức độ hoàn thành chương trình của học sinh. Cũng có những kế hoạch chi tiết và cũng có những kế hoạch đơn giản như là “ngày mai tôi bắt đầu luyện kỹ năng đó”.
– Cập nhật kiến thức / lý thuyết liên quan đến kỹ năng đó. Thông qua tài liệu, báo chí hoặc buổi thuyết trình nào đó. Phần lớn thì những kiến thức này chúng ta được học từ trường và từ thày của mình.
– Luyện tập kỹ năng: có thể luyện tập ngay trong công việc, luyện tập với thầy cô hoặc tự mình luyện tập.
– Ứng dụng và điều chỉnh. Để sở hữu thực sự một kỹ năng chúng ta phải ứng dụng nó trong cuộc sống và công việc. Công việc và cuộc sống thì biến động không ngừng nên việc hiệu chỉnh là quá trình diễn ra thường xuyên nhằm hướng tới việc hoàn thiện kỹ năng của chúng ta. Một khi bạn hoàn thiện kỹ năng thì cũng có nghĩa là bạn đang hoàn thiện bản thân mình.
Trong quá trình dạy học, các kĩ năng cùng với kiến thức và thái độ hình thành nên năng lực của cá nhân. Để thực hiện một nhiệm vụ, một công việc có thể đòi hỏi nhiều năng lực khác nhau. Vì năng lực được thể hiện thông qua việc thực hiện nhiệm vụ nên người học cần chuyển hoá những kiến thức, kỹ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới.
Nếu nhìn nhận kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, thì kĩ năng chính là cách thức, con đường để học sinh khám phá và bồi dưỡng năng lực của mình. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối cảnh thực là đặc trưng quan trọng của năng lực, tuy nhiên, khả năng đó có được lại dựa trên sự đồng hoá và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, khả năng vận dụng trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Các kĩ năng được hình thành ở bản thân mỗi học sinh thể hiện trong các mức độ nhận thức của quá trình học tập. Người ta chia các mức quá trình nhận thức và các bậc trình độ nhận thức tương ứng như sau:

Các mức
quá trìnhCác bậc trình độ
nhận thứcCác đặc điểm1.
Hồi tưởng thông tinTái hiện
Nhận biết lại
Tái tạo lại– Nhận biết lại cái gì đã học theo cách thức không thay đổi.
– Tái tạo lại cái đã học theo cách thức không thay đổi2.
Xử lí
thông tinHiểu và vận dụng
Nắm bắt ý nghĩa
Vận dụng– Phản ánh theo ý nghĩa cái đã học
– Vận dụng các cấu trúc đã học trong tình huống tương tự3.
Tạo thông tinXử lí, giải quyết vấn đề– Nghiên cứu có hệ thống và bao quát một tình huống bằng những tiêu chí riêng
– Vận dụng các cấu trúc đã học sang một tình huống mới
– Đánh giá một hoàn cảnh, tình huống thông qua những tiêu chí riêng

Tổng hợp theo các mức quá trình nhận thức và trình độ nhận thức để giúp các em học sinh làm tốt bài đọc hiểu, đề tài tập trung vào các kĩ năng sau:
– Kĩ năng nắm bắt, hồi tưởng và khái quát thông tin.
– Kĩ năng xử lí thông tin.
– Kĩ năng tạo thông tin.
Kiến thức, kỹ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Không thể có năng lực về toán nếu không có kiến thức và được thực hành, luyện tập trong những dạng bài toán khác nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kỹ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kỹ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.

2.2. Ngữ liệu minh chứng
MÃ ĐỀ 2:
ĐỌC HIỂU
Đọc đoạn trích (A) và trả lời các câu hỏi từ câu 1 đến câu 4:
(A) Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như ngày trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt, lắc đầu ra hiệu không bằng lòng.
(Vợ nhặt, Kim Lân, SGK Ngữ văn, tập 2)
Câu 1: Nêu hoàn cảnh liên quan đến nhân vật Tràng được thể hiện trong đoạn trích trên.
Câu 2: Biện pháp tu từ nào được tác giả sử dụng trong vế in đậm của câu sau: Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. Em hiểu gì về cuộc sống qua cách miêu tả đó?
Câu 3: Hành động, tâm lí của hình tượng người đàn bà nói lên điều gì bản chất con người này?
Câu 4: Việc sử dụng từ ngữ trong diễn đạt của đoạn văn dưới đây có chỗ chưa phù hợp, hãy sửa lại thành đoạn văn khác chuẩn xác hơn và súc tích hơn mà vẫn giữ được ý chính:
Cuộc sống “vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành.
Đọc đoạn trích (B) và trả lời các câu hỏi từ câu 5 đến câu 8:
(B) Là những người thua cuộc trong trận đấu với Bờ Biển Ngà, nhưng cách hành xử đầy văn hóa của cả cổ động viên và các cầu thủ Nhật đã khiến thế giới phải nể phục.
Sau khi tiếng còi kết thúc trận đấu vang lên, những người Nhật đã nán lại, cầm theo những chiếc túi nhựa để nhặt rác vương vãi tại khu vực ghế ngồi của các cổ động viên Nhật. Trong lúc cổ vũ, họ cũng giống như cổ động viên đến từ các nước khác, có vứt rác xuống khán đài, nhưng khi trận đấu kết thúc, chính họ sẽ ở lại để thu dọn rác mà mình đã vứt ra… Tại Nhật, hành động này sẽ chẳng có gì đặc biệt bởi đó đã là thói quen của người Nhật từ bao lâu nay. Mỗi khi tham gia vào những sự kiện lễ hội, thể thao, họ luôn có ý thức giữ gìn cảnh quan nơi mình tới.
Trước khi rời sân đấu, những cầu thủ của đội Nhật đã xếp hàng ngay ngắn, cúi đầu hướng về phía những cổ động viên trung thành, đã lặn lội đi theo họ sang tận Brazil để cổ vũ. Các cầu thủ Nhật đã ở lại để xin lỗi những cổ động viên nước mình.
(Theo dantri.com.vn,16/6/2014)
Câu 5. Trận đấu giữa Nhật Bản với Bờ Biển Ngà diễn ra vào ngày 15/6/2014, hãy cho biết đoạn trích trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào của văn bản?
Câu 7. Đoạn trích trên thể hiện những hành vi ứng xử nào của cổ động viên và cầu thủ Nhật Bản? Những hành vi ứng xử đó phản ánh điều gì về con người và đất nước Nhật Bản?
Câu 8. Viết một đoạn văn ngắn bày tỏ nhận thức bài học cuộc sống cho bản thân từ các thông tin được đề cập trong đoạn trích trên.

MÃ ĐỀ 3 (Dẫn theo tài liệu tập huấn, Bộ GD &ĐT, 2014):
Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi từ Câu 9 đến Câu 16:
TRÁI TIM HOÀN HẢO
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đều đồng ý đó là trái tim hoàn hảo nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: “Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!”. Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm ; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cười nói:
– Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt.
Cụ già trầm tĩnh đáp:
– Mỗi vết cắt trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè…Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thì họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tim tôi trao cho họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những nếp sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề nhận lại được gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hi vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi.
Chàng trai đứng yên với giọt nước mắt lăn trên má. Anh bước tới xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của mình trao cho chàng trai. Chúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Trái tim của anh không thật sự hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong trái tim anh.
(Theo Trí Quyển – Quà tặng cuộc sống – NXB Trẻ TP HCM, 2006)
Câu 9. Nội dung chính của văn bản trên là gì?
……………………………………………………………………………………………………………..
Câu 10. Em hiểu thế nào về nhan đề Trái tim hoàn hảo?
……………………………………………………………………………………………………………..
Câu 11. Văn bản trên có sự kết hợp những phương thức biểu đạt nào?
…………………………………………………………………………………………………………..
Câu 12. Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thể hiện của văn bản trên là gì?
………………………………………………………………………………………………………..
Câu 13. Hãy cho biết ý nghĩa biểu tượng của những chi tiết sau:
– vết sẹo:……………………….………………………………………………………………
– đường rãnh khuyết: …………………………..…………………………………………
– đường lởm chởm:………………………………………………………………..……….
Câu 14. Hãy giải thích về “giọt nước lăn trên má” của chàng trai.
…………………………………………………………………………………………………….
Câu 15. Bài học gì được rút ra từ câu chuyện trên?
…………………………………………………………………………………………………………..
Câu 16. Viết đoạn văn (khoảng 10-15 dòng) nêu cảm nhận của anh/chị về câu văn: “Trái tim của anh không thật sự hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong trái tim anh.”?
…………………………………………………………………………………………………………..

  1. Bồi dưỡng kĩ năng đọc hiểu cho học sinh trong quá trình kiểm tra, đánh giá.

Để thực hiện đọc – hiểu và phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh, giáo viên cần có thái độ cởi mở, chấp nhận những cách hiểu khác nhau miễn là có lí. Trong trường hợp có cách hiểu khác nhau thì giáo viên phát huy đối thoại, thảo luận, phân tích giá trị của từng cách hiểu dựa trên nền tảng kiến thức cơ bản, để lựa chọn cách hiểu có ý nghĩa nhất, hay nhất, có sức thuyết phục cao.
3.1. Kĩ năng nắm bắt, hồi tưởng và khái quát thông tin.
Kĩ năng này giúp học sinh thực hiện các câu hỏi dạng tái hiện lại, nhận biết thông tin.

Câu hỏi dạng tái hiện lại, nhận biết thông tin.MÃ ĐỀ 2Câu 1: Nêu hoàn cảnh liên quan đến nhân vật Tràng được thể hiện trong đoạn trích trên.
Câu 2: Biện pháp tu từ nào được tác giả sử dụng trong vế in đậm của câu sau: Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa.?
Câu 5. Trận đấu giữa Nhật Bản với Bờ Biển Ngà diễn ra vào ngày 15/6/2014, hãy cho biết đoạn trích trên được viết theo phong cách ngôn ngữ nào của văn bản?
Câu 7. Đoạn trích trên thể hiện những hành vi ứng xử nào của cổ động viên và cầu thủ Nhật Bản?MÃ ĐỀ 3Câu 9. Nội dung chính của văn bản trên là gì?
Câu 11. Văn bản trên có sự kết hợp những phương thức biểu đạt nào?
Câu 12. Đặc điểm nổi bật trong nghệ thuật thể hiện của văn bản trên là gì?


3.1.1. Đối với những văn bản trong chương trình phổ thông.
– Đọc kĩ ngữ liệu và xác định các đơn vị kiến thức cần thiết và liên quan: tác giả và tác phẩm (bối cảnh sáng tác, thể loại, nội dung cơ bản và đặc trưng nghệ thuật,…), vị trí đoạn trích,….
– Đọc kĩ các yêu cầu từ ngữ liệu để chuẩn bị thực hiện các yêu cầu: Lựa chọn đơn vị kiến thức trong bộ môn và liên môn phù hợp với yêu cầu. Muốn lựa chọn đúng và trúng yêu cầu, học cần nắm được đặc trưng bản chất cốt lõi của đơn vị kiến thức cần nêu ra.
Nếu đề yêu cầu chỉ ra phương thức biểu đạt được sử dụng thì học sinh phải hiểu được:

Phương thức biểu đạtĐặc trưng, bản chấtTự sựKể lại, thuật lạiMiêu tảThể hiện cụ thể về đặc trưng, chi tiết, vẻ đẹp, điểm nổi bật của đối tượng để người đọc hình dung cụ thể và trọn vẹn.Biểu cảmBiểu hiện cảm xúc, tình cảm, thái độ.Thuyết minhLàm rõ đối tượng bằng cách đưa ra thông tin thực tế.Nghị luậnBàn bạc, đánh giá, suy ngẫm.

Ví dụ:
Chỉ ra phương thức biểu đạt được sử dụng trong câu: Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh.(Vợ nhặt, Kim lân)
Đáp án: Miêu tả
3.1.2. Đối với những văn bản ngoài chương trình phổ thông.
– Khái quát nội dung bằng cách tập hợp những từ khóa của đoạn thông tin
Để học hiệu quả, chúng ta chú ý rằng chỉ cần đọc kĩ đoạn ngữ liệu và chỉ ra được cái “cốt lõi” hoặc “thông tin” qua nhan đề và các từ khóa ở phần văn bản.
Sau đó, ghi chú những ý chính và từ khóa để dành cho việc lí giải và sáng tạo.
MINH HỌA VỀ TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CÁC TỪ KHÓA: NGỮ LIỆU MÃ ĐỀ 3
TRÁI TIM HOÀN HẢO
Có một chàng thanh niên đứng giữa thị trấn và tuyên bố mình có trái tim đẹp nhất vì chẳng hề có một tì vết hay rạn nứt nào. Đám đông đều đồng ý đó là trái tim hoàn hảo nhất mà họ từng thấy. Bỗng một cụ già xuất hiện và nói: “Trái tim của anh không đẹp bằng trái tim tôi!”. Chàng trai cùng đám đông ngắm nhìn trái tim của cụ. Nó đang đập mạnh mẽ nhưng đầy những vết sẹo. Có những phần của tim đã bị lấy ra và những mảnh tim khác được đắp vào nhưng không vừa khít nên tạo một bề ngoài sần sùi, lởm chởm ; có cả những đường rãnh khuyết vào mà không hề có mảnh tim nào trám thay thế. Chàng trai cười nói:
– Chắc là cụ nói đùa! Trái tim của tôi hoàn hảo, còn của cụ chỉ là những mảnh chắp vá đầy sẹo và vết cắt.
Cụ già trầm tĩnh đáp:
– Mỗi vết cắt trong trái tim tôi tượng trưng cho một người mà tôi yêu, không chỉ là những cô gái mà còn là cha mẹ, anh chị, bạn bè…Tôi xé một mẩu tim mình trao cho họ, thường thì họ cũng sẽ trao lại một mẩu tim của họ để tôi đắp vào nơi vừa xé ra. Thế nhưng những mẩu tim chẳng hoàn toàn giống nhau, mẩu tim của cha mẹ trao cho tôi lớn hơn mẩu tim tôi trao cho họ, ngược lại với mẩu tim của tôi và con cái tôi. Không bằng nhau nên chúng tạo ra những nếp sần sùi mà tôi luôn yêu mến vì chúng nhắc nhở đến tình yêu mà tôi đã chia sẻ. Thỉnh thoảng tôi trao mẩu tim của mình nhưng không hề nhận lại được gì, chúng tạo nên những vết khuyết. Tình yêu đôi lúc chẳng cần sự đền đáp qua lại. Dù những vết khuyết đó thật đau đớn nhưng tôi vẫn luôn hi vọng một ngày nào đó họ sẽ trao lại cho tôi mẩu tim của họ, lấp đầy khoảng trống mà tôi luôn chờ đợi.
Chàng trai đứng yên với giọt nước mắt lăn trên má. Anh bước tới xé một mẩu từ trái tim hoàn hảo của mình trao cho cụ già. Cụ già cũng xé một mẩu từ trái tim đầy vết tích của mình trao cho chàng trai. Chúng vừa nhưng không hoàn toàn khớp nhau, tạo nên một đường lởm chởm trên trái tim chàng trai. Trái tim của anh không thật sự hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong trái tim anh.
(Theo Trí Quyển – Quà tặng cuộc sống – NXB Trẻ TP HCM, 2006)
CÂU HỎI: Nội dung chính của văn bản trên là gì?
ĐÁP ÁN: Ý nghĩa, giá trị của tình yêu thương, sự hi sinh, chia sẻ của con người trong cuộc sống. Trái tim- tâm hồn của con người chỉ hoàn hảo khi biết sẻ chia, hi sinh cho người khác
– Sử dụng nội dung ý nghĩa thông tin từ ngữ liệu để chuẩn bị thực hiện các yêu cầu: Lựa chọn đơn vị kiến thức trong bộ môn và liên môn phù hợp với yêu cầu. Muốn lựa chọn đúng và trúng yêu cầu, học cần nắm được đặc trưng bản chất cốt lõi của đơn vị kiến thức cần nêu ra.
Ví dụ:
Trong trận “Hải chiến Trường Sa” ngày 14-3-1988 trên đảo Gạc Ma và Cô Lin, chúng ta có 64 cán bộ, chiến sĩ hy sinh và các anh hầu hết tuổi đời còn rất trẻ. Cụ Lê Thị Muộn, mẹ Liệt sĩ Phan Văn Sự, nước mắt vắn dài thương nhớ người con trai và cũng rất đỗi tự hào khi con mình cùng đồng đội quyết tử để bảo vệ đảo, bảo vệ Tổ quốc. Kỷ vật mà mẹ lưu giữ mãi là chiếc áo hải quân của con trai gửi về trước khi ra đảo. Mẹ may lại thành áo và luôn mang bên người, giữ nguyên vẹn như mới sau 25 năm. Nhìn mẹ Muộn khoác chiếc áo, ai cũng bùi ngùi xúc động…
(25 năm sau “Hải chiến Trường Sa”: Sáng mãi “vòng tròn bất tử”. http://congan.com.vn. 15/03/2013)
Câu 1: Đoạn trích đề cập sự kiện lịch sử nào của đất nước? Kết quả?
ĐÁP ÁN: Trận “Hải chiến Trường Sa” ngày 14-3-1988, Trung Quốc thực hiện dã tâm đánh chiếm đảo nhỏ thuộc Quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Có 64 cán bộ, chiến sĩ hy sinh và các anh hầu hết tuổi đời còn rất trẻ
Câu 2: Hãy khái quát nội dung chính của đoạn trích trên?
ĐÁP ÁN: Tình cảm, nhận thức, nỗi ám ảnh của nhân dân ta về trận “Hải chiến Trường Sa” năm 1988.

  • Kĩ năng xử lí thông tin.
  • Kĩ năng này giúp học sinh sử dụng vốn kiến thức thực hiện các câu hỏi dạng lí giải, suy ngẫm về các thông tin liên quan đến nội dung và hình thức của ngữ liệu.

    Câu hỏi dạng xử lí thông tin, đánh giá
    khả năng lí giải và suy luận của học sinhMÃ ĐỀ 2Câu 2: … Em hiểu gì về cuộc sống qua cách miêu tả đó?
    Câu 3: Hành động, tâm lí của hình tượng người đàn bà nói lên điều gì bản chất con người này?
    Câu 7. … Những hành vi ứng xử đó phản ánh điều gì về con người và đất nước Nhật Bản?MÃ ĐỀ 3Câu 10. Em hiểu thế nào về nhan đề Trái tim hoàn hảo?
    Câu 13. Hãy cho biết ý nghĩa biểu tượng của những chi tiết sau:
    – vết sẹo:
    – đường rãnh khuyết:
    – đường lởm chởm:
    Câu 14. Hãy giải thích về “giọt nước lăn trên má” của chàng trai.

    Tính hiệu quả trong việc học sinh thực hiện yêu cầu xử lí thông tin của đề bài là rèn luyện cho các em có được câu trả lời ở mức đầy đủ nhất. Học sinh cần chú ý các điều kiện:
    + Bám sát và lấy các thông tin đã chỉ ra từ những yêu cầu trước, kết hợp bổ sung thông tin ở ngữ liệu làm cơ sở để cắt nghĩa, lí giải.
    + Vận dụng kiến thức liên quan về ngôn ngữ, văn bản tiến hành cắt nghĩa, lí giải phần thông tin được yêu cầu theo hai phương diện chính: nghĩa thực, hàm nghĩa.
    Nghĩa thực:
    Phần nội dung được biểu hiện trực tiếp, thể hiện đối tượng theo đúng bản chất của đời sống khách quan. Xét theo góc nhìn hẹp thì nghĩa thực tương đương như nghĩa tường minh, nghĩa gốc.
    Hàm nghĩa:
    – Là phần nội dung, ý nghĩa không được diễn đạt trực tiếp. Muốn nắm bắt được hàm ý, học sinh dựa trên ngữ điệu, bối cảnh giao tiếp…
    – Chỉ ra được đầy đủ hàm nghĩa sẽ góp phần nâng cao hiệu quả bài làm của học sinh.
    – Đây là thuật ngữ có tính bao quát trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, đặc biệt là việc tiếp cận các loại văn bản theo phong cách ngôn ngữ. Xét theo góc nhìn hẹp thì hàm nghĩa tương đương như hàm ý, nghĩa chuyển.

    Mã đềYêu cầu xử lí
    thông tinKiến thức làm cơ sởKết quả cắt nghĩa,
    lí giải2Câu 3: Hành động, tâm lí của hình tượng người đàn bà nói lên điều gì bản chất con người này?-Tràng và thị thành vợ thành chồng trong bối cảnh của nạn đói.
    -Thị theo không Tràng về nhà tại xóm ngụ cư trước sự chứng kiến của nhiều người, cảm thấy e thẹn, xấu hổ.– Người phụ nữ cố gắng che giấu cảm xúc, vẻ mặt đáng thương của mình.
    => Kín đáo, tế nhị, biết quý trọng phẩm giá, tự trọng bản thân.3Câu 10. Em hiểu thế nào về nhan đề Trái tim hoàn hảo?-Chàng thanh niên tự hào mình có trái tim đẹp nhất vì không có vết rạn nứt.
    -Một cụ già bác bỏ quan điểm của chàng thanh niên, giúp anh ta cảm nhận được vẻ đẹp hoàn hảo của trái tim cụ từ những vết sẹo, vết sần sùi.
    – Chàng thanh niên khóc, anh và cụ già trao cho nhau mẩu trái tim của mình: Trái tim của anh không thật sự hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong trái tim anh.– Trái tim hoàn hảo là trái tim có vẻ đẹp nổi bật, toàn diện không thể chê được
    – Trái tim là biểu tượng cho tấm lòng, vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách con người.

    => Trái tim hoàn hảo không phải là trái tim không có tỳ vết. Đó là trái tim biết cho đi và nhận lại tình yêu thương, cho dù trái tim có nhiều mảnh vá.

  • Kĩ năng tạo thông tin.
  • Kĩ năng tạo thông tin là kĩ năng tổng hợp đòi hỏi học sinh vận dụng vốn kiến thức kết hợp với các kĩ năng nền tảng đã được rèn luyện nhằm thực hiện các yêu cầu tạo lập, sáng tạo lớp thông tin mới theo quan điểm, khả năng tư duy của bản thân.

    Câu hỏi dạng yêu cầu tạo thông tin.MÃ ĐỀ 2Câu 4: Việc sử dụng từ ngữ trong diễn đạt của đoạn văn dưới đây có chỗ chưa phù hợp, hãy sửa lại thành đoạn văn khác chuẩn xác hơn và súc tích hơn mà vẫn giữ được ý chính:
    Cuộc sống “vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành.
    Câu 8. Viết một đoạn văn ngắn bày tỏ nhận thức bài học cuộc sống cho bản thân từ các thông tin được đề cập trong đoạn trích trên.MÃ ĐỀ 3Câu 16. Viết đoạn văn (khoảng 10-15 dòng) nêu cảm nhận của anh/chị về câu văn:“Trái tim của anh không thật sự hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong trái tim anh.”?

    Vì là kĩ năng tổng hợp nên dạng câu hỏi yêu cầu tạo thông tin bao giờ cũng đa dạng, có tính mở. Tuy nhiên, dù trả lời theo cách nào, góc nhìn nào cũng cần chú ý bám sát bản chất vấn đề. Phần trình bày tránh sự thể hiện suy nghĩ lệch lạc, phiến diện. Trong phần thi đọc hiểu, đề bài về kĩ năng tạo thông tin thường nằm trong các phương thức sau:
    3.3.1. Dạng câu hỏi viết luận:
    Học sinh vận dụng kết hợp kiến thức đã nêu ở đề bài với những kiến thức và thao tác liên quan đến việc lập luận, đảm bảo đầy đủ yêu cầu về hình thức và bản chất thông tin. Ở dạng câu hỏi này, các em phải tạo lập, mở rộng và phát triển thông tin bằng nhận thức, quan điểm và cách thức riêng của bản thân.
    Dạng câu hỏi viết luận thường gắn liền với yêu cầu về hình thức trình bày, làm rõ định hướng nội dung như: thể hiện nhận thức…; suy nghĩ như thế nào…; bạn có nghĩ rằng…; bài học, giá trị cuộc sống mà anh/chị rút ra được…
    Ví dụ:

  • Câu 8 – MÃ ĐỀ 2: Viết một đoạn văn ngắn bày tỏ nhận thức bài học cuộc sống cho bản thân từ các thông tin được đề cập trong đoạn trích trên.
  • HƯỚNG DẪN CHẤM:
    Mục đích của câu hỏi nhằm đánh giá khả năng thể hiện cách hiểu và cảm nhận của HS về về hành vi nhặt rác của cổ động viên Nhật Bản và cái cúi đầu xin lỗi của các cầu thủ Nhật Bản.
    Mức đầy đủ
    Mã 3: Bài làm của HS đạt được những yêu cầu sau:

  • Tạo lập được đoạn văn, đảm bảo logic về ý.
  • Diễn đạt sáng rõ, đúng chính tả
  • Thể hiện được nhận thức sâu sắc của cá nhân về những hành động đậm chất văn minh của cong người Nhật Bản: đó là ý thức tự trọng, tinh thần trách nhiệm với bản thân mình và cộng đồng…
  • Mức không đầy đủ
    Mã 2: Viết được đoạn văn, trình bày được một số ý, nhưng chưa thật đầy đủ, sâu sắc.
    Mã 1: Chỉ viết được 1 vài câu, ý sơ sài
    Mức không tính điểm
    Mã 0: Viết sai lạc nội dung.
    Mã 9: Không trả lời

  • Câu 16 – MÃ ĐỀ 3: Viết đoạn văn (khoảng 10-15 dòng) nêu cảm nhận của anh/chị về câu văn:“Trái tim của anh không thật sự hoàn hảo nhưng lại đẹp hơn bao giờ hết vì tình yêu từ trái tim của cụ già đã chảy trong trái tim anh.”?
  • HƯỚNG DẪN CHẤM:
    Mục đích của câu hỏi nhằm đánh giá khả năng thể hiện cách hiểu và cảm nhận của HS về về hành vi nhặt rác của cổ động viên Nhật Bản và cái cúi đầu xin lỗi của các cầu thủ Nhật Bản.
    Mức đầy đủ
    Mã 3: Bài làm của HS đạt được những yêu cầu sau:

  • Tạo lập được đoạn văn, đảm bảo logic về ý.
  • Diễn đạt sáng rõ, đúng chính tả
  • Thể hiện được nhận thức sâu sắc của cá nhân về những hành động đậm chất văn minh của cong người Nhật Bản: đó là ý thức tự trọng, tinh thần trách nhiệm với bản thân mình và cộng đồng…
  • Mức không đầy đủ
    Mã 2: Viết được đoạn văn, trình bày được một số ý, nhưng chưa thật đầy đủ, sâu sắc.
    Mã 1: Chỉ viết được 1 vài câu, ý sơ sài
    Mức không tính điểm
    Mã 0: Viết sai lạc nội dung.
    Mã 9: Không trả lời
    3.3.2. Dạng câu hỏi dựa vào nguồn gốc ngữ liệu:
    + Sửa chữa, điều chỉnh, bổ sung phần thông tin cho chuẩn xác hơn và trong sáng hơn so với phần thông tin được nêu ra.

  • Yêu cầu: Giáo viên củng cố và hướng dẫn học sinh vận dụng các quy tắc, phương thức chung về việc dùng từ, viết câu trong quá trình diễn đạt.
  • Ví dụ:
    Câu 4 – MÃ ĐỀ 2: Việc sử dụng từ ngữ trong diễn đạt của đoạn văn dưới đây có chỗ chưa phù hợp, hãy sửa lại thành đoạn văn khác chuẩn xác hơn và súc tích hơn mà vẫn giữ được ý chính:
    Cuộc sống “vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành.
    HƯỚNG DẪN CHẤM:

  • Việc dùng từ ngữ, diễn đạt giữa các vế câu thiếu tính liên kết chặt chẽ. Cách chỉnh sửa: thêm bớt từ ngữ và tổ chức lại câu văn làm nổi bật hoàn cảnh của đối tượng.
  • Có thể tham khảo mẫu câu chỉnh sửa lại như sau: Tràng lấy vợ giữa cảnh sống vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Thân phận con người và khát vọng hạnh phúc đang trở nên mong manh bởi cái đói. Tình huống đọng lại giá trị của tình người: đó là khát vọng sống và lòng yêu thương chân thành.

  • + Suy luận, giảng giải làm rõ nguyên nhân, bản chất vấn đề: Tác giả cảm thấy như thế nào…; Điều đó có ích như thế nào…; gợi ra điều gì…?
    Ví dụ:
    Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình. Hình như đối với họ, việc sử dụng Pháp ngữ là một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc, cũng như sử dụng nước suối Pe-ri-ê (Pérrier) và rượu khai vị biểu trưng cho nền văn minh châu Âu. Nhiều người An Nam bị Tây hóa hiện nay tưởng rằng khi cóp nhặt những cái tầm thường của phong hóa châu Âu họ sẽ làm cho đồng bào của mình tin là họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương.
    (Tiếng mẹ đẻ – nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức,
    Nguyễn An Ninh, Ngữ văn 11, tập hai)
    Câu hỏi: Từ âm hưởng, giọng điệu của đoạn trích, hãy nêu ngắn gọn tình cảm và nhận thức của tác giả khi đề cập các thông tin trên?
    HƯỚNG DẪN CHẤM
    => Phê phán cách nghĩ, lối sống lệch lạc của một bộ phận người An Nam (người Việt) khi mù quáng tôn sùng kiểu sống phương Tây (châu Âu)
    => Đau đớn, xót xa khi chứng kiến thực trạng tiếng mẹ đẻ bị coi thường từ trong chính nhận thức và tư duy của đồng bào mình.


    HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ HIỆU QUẢ XÃ HỘI:

  • Hiệu quả kinh tế:
  • Giảm bớt thời gian học bài theo lối học chay, học vẹt .
    Hạn chế tình trạng học thêm tràn lan vì học sinh chỉ cần tích lũy kiến thức và kĩ năng ngay từ lớp học, tiết học gồm tiết học kiến thức cơ bản và tiết học thực hành sẵn có trong sách giáo khoa.

  • Hiệu quả xã hội:
  • Thực hiện kiểm tra, đánh giá học sinh THPT theo định hướng phát triển năng lực góp phần phát huy những hiệu quả sau:
    + Nâng cao năng lực nghe, nói, đọc, viết và năng lực cảm nhận văn bản được giới thiệu trong chương trình cũng như những văn bản ngoài chương trình (tương đương về nội dung và kiểu văn bản).
    + Giúp học sinh hiểu đặc điểm nội dung và nghệ thuật của các văn bản theo kiểu loại và tạo lập được các văn bản theo kiểu loại, phát triển và nâng cao năng lực thưởng thức văn học và năng lực sử dụng tiếng Việt trong các tình huống giao tiếp (nói và viết).
    + Học sinh có kiến thức và kỹ năng thực hành toàn diện, góp phần giáo dục đạo đức công dân, kỹ năng sống, hiểu biết xã hội,… Như vậy, kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực không chỉ là phối hợp các kiến thức và kỹ năng của tiếng Việt và văn học mà còn là sự tích hợp liên ngành để hình thành một “phông” văn hoá cho học sinh. Có nghĩa là để thực hiện được mục tiêu đặt ra trong môn học ngữ văn, các em cần vận dụng tổng hợp những hiểu biết về ngôn ngữ, văn hoá, văn học, lịch sử, địa lí, phong tục, vốn sống, vốn tri thức và kinh nghiệm của bản thân.

  • Tổng hợp những kết quả từ quá trình công tác trong năm học 2014-2015
  • Dựa trên điểm các bài kiểm tra thường xuyên và định kì, đặc biệt là kết quả bài thi theo đề thi chung của Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Bình, tôi tiến hành khảo sát ba lớp học (99 em tại các lớp 12C, 12H, 12M) với kết quả cụ thể như sau:

    Các phương diệnSố lượng đáp ứng và thông tin phản hồiTỷ lệ đạt đượcThái độ, khả năng thích ứng với những yêu cầu đổi mới kiểm tra, đánh giá môn ngữ văn– 99 học sinh cảm thấy hứng thú với hình thức kiểm tra, đánh giá theo năng lực
    – 99 học sinh cảm thấy tự tin, nhạy bén hơn trong cách xử lí vấn đề và thực tiễn.100%Kết quả thực hiện tại lớp 12C30/31 học sinh đạt yêu cầu về kiểm tra, đánh giá (tính từ mức trung bình trở lên)97%Kết quả thực hiện tại lớp 12H33/35 học sinh đạt yêu cầu về kiểm tra, đánh giá (tính từ mức trung bình trở lên)94,3%Kết quả thực hiện tại lớp 12M31/33 học sinh đạt yêu cầu về kiểm tra, đánh giá (tính từ mức trung bình trở lên)94%




    ò ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG.

    1. Đảm bảo theo cấu trúc đề kiểm tra, đánh giá kỹ năng đọc và viết trong môn ngữ văn.

    Đánh giá kỹ năng đọc hiểu của học sinh thì ngoài việc đưa ra những văn bản trong chương trình, chúng ta có thể kết hợp với văn bản mới (bao gồm cả văn bản văn học và văn bản nhật dụng, có cùng đề tài, chủ đề hoặc thể loại với văn bản đã học trong chương trình và SGK). Yêu cầu học sinh vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã có vào việc đọc hiểu và cảm thụ văn bản mới này. Các câu hỏi đánh giá kỹ năng đọc hiểu và cảm thụ nên được thiết kế theo cách làm của PISA, bao gồm: câu hỏi mở yêu cầu trả lời ngắn; câu hỏi mở yêu cầu trả lời dài; câu hỏi đóng yêu cầu trả lời dựa trên những trả lời có sẵn; câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn; câu hỏi có – không, đúng-sai phức hợp.
    Dạy học, kiểm tra và đánh giá theo định hướng phát triển năng lực không chỉ nhằm mục tiêu phát triển năng lực chuyên môn bao gồm tri thức, kĩ năng chuyên môn mà còn phát triển năng lực phương pháp, năng lực xã hội, năng lực cá thể. Những năng lực này không tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Năng lực hành động được hình thành trên cơ sở sự kết hợp các năng lực này.
    Nội dung dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ giới hạn trong tri thức và kỹ năng chuyên môn mà gồm cả những nhóm nội dung nhằm phát triển các lĩnh vực.

    Học nội dung chuyên mônHọc phương pháp – chiến lượcHọc giao tiếp –
    xã hộiHọc tự
    trải nghiệm –
    đánh giá– Các tri thức chuyên môn ( các khái niệm, phạm trù, quy luật, mối quan hệ…)
    – Các kỹ năng chuyên môn
    – Ứng dụng đánh giá chuyên môn– Lập kế hoạch học tập, kế hoạch làm việc
    – Các phương pháp nhận thức chung: Thu thập, xử lý, đánh giá, trình bày thông tin
    – Các phương pháp chuyên môn– Làm việc trong nhóm
    – Tạo điều kiện cho sự hiểu biết về phương diện xã hội
    – Học cách ứng xử, tinh thần trách nhiệm, khả năng giải quyết xung đột– Tự đánh giá điểm mạnh, điểm yếu
    – Xây dựng kế hoạch, phát triển cá nhân
    – Đánh giá, hình thành các chuẩn mực giá trị, đạo đức và văn hoá, lòng tự trọng…Năng lực
    chuyên mônNăng lực
    phương phápNăng lực
    xã hộiNăng lực
    nhân cách

    Cần đổi mới cách thức đánh giá kỹ năng đọc hiểu của học sinh bằng cách ra đề theo hướng mở và tích hợp (trong môn và liên môn). Đề mở chấp nhận nhiều cách trả lời, thậm chí có những câu trả lời đối ngược nhau miễn là học sinh bộc lộ được nhận thức và lập luận logic trong quá trình đi đến câu trả lời. Trong quá trình làm bài, học sinh cần vận dụng các kiến thức kỹ năng của các phân môn Tiếng Việt, Tập làm văn, Văn học cũng như kiến thức liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân…) để giải quyết vấn đề mà đề bài nêu ra. Đáp án không áp đặt nội dung trả lời mà nên nêu được các phương án mà học sinh sử dụng nhiều kỹ năng, thao tác khác nhau trong giải quyết vấn đề; khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, quan điểm riêng của mình, chấp nhận nhiều cách hiểu và giải quyết vấn đề khác nhau miễn là tư tưởng của người viết không đi ngược lại những chuẩn mực đạo đức và pháp luật mà xã hội đã quy định; khuyến khích học sinh vận dụng được những điều đã học vào giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra một cách có sức thuyết phục, hợp lý, tự nhiên, phù hợp với trình độ của các em. tiến hành thường xuyên trong các bài kiểm tra từ 1-2 tiết, bài kiểm tra học kỳ, kiểm tra cuối năm, thi tốt nghiệp THPT và thi tuyển sinh đại học, cao đẳng.