Giao lưu và tiếp biến với văn hóa
Tiếp xúc và giao lưu văn hóa là hiện tượng phổ biến của xã hội loài người, là quy luật vận động, phát triển của mọi nền văn hóa. Giao lưu văn hóa phản ánh sự học hỏi và tiếp nhận tri thức, kinh nghiệm của các quốc gia trên nhiều lĩnh vực, trước hết là những thành tựu về trí tuệ, khoa học, công nghệ, về kinh nghiệm tổ chức, quản lý nhà nước. Lịch sử giao lưu văn hóa quốc tế đưa lại cho nhân loại ánh sáng trí tuệ, những phát minh, những kinh nghiệm trong lao động sáng tạo. Với đặc điểm gần gũi về không gian địa lý, với tính chất cởi mở, khoan dung, văn hóa Việt Nam từ rất sớm đã có điều kiện thuận lợi để tiếp xúc, giao lưu, tiếp biến với các nền văn hóa khác. Trong đó, tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc có thể nói là mối giao lưu lâu dài, thường xuyên, nhiều thăng trầm, đồng thời cũng là quan hệ bền vững, đạt nhiều thành tựu và có ảnh hưởng lớn đến mỗi quốc gia. Show Trong lịch sử, những yếu tố văn hóa Trung Hoa đã đi vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, đan xen chồng chéo, ở mức độ đậm nhạt khác nhau với cách ứng xử không giống nhau. Con đường triều đình và Nho sĩ được xem là con đường chính thống mà sử sách ghi chép khá đầy đủ. Đây là con đường chuyển tải có hệ thống và có chủ trương bằng chính sách đồng hóa áp đặt, nhưng thường hay vấp phải sự phản kháng từ phía tiếp nhận (chống đồng hóa). Ở chiều ngược lại, con đường dân gian - đi từ thông thương, di cư, cộng cư, hòa nhập thường diễn ra âm thầm và lặng lẽ thông qua các tầng lớp nhân dân lao động người Hoa. Con đường này mang tính chất tự nguyện và theo quy luật: “truyền” và “tiếp nhận”. Cả hai dạng thức của tiếp xúc, giao lưu, tiếp biến văn hóa cưỡng bức và tự nguyện của mối quan hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa đều là nhân tố cho sự vận động của văn hóa Việt Nam qua diễn trình lịch sử. Việc thâu hóa, bản địa hóa có ý thức những giá trị văn hóa Trung Hoa để làm giàu cho văn hóa dân tộc ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, biểu hiện phong phú trong các lĩnh vực: sinh hoạt đời sống (ăn, mặc, ở…), phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng, ngôn ngữ, văn tự, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa... Nhằm giúp bạn đọc có thêm tài liệu về quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt Nam - Trung Quốc như là quy luật phát triển của văn hóa, quy luật tất yếu của đời sống, một nhu cầu tự nhiên của con người; ảnh hưởng từ quá trình này đối với văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia sự thật xuất bản cuốn sách Tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt - Hoa trong lịch sử của GS. Phạm Đức Dương và TS. Châu Thị Hải, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (đồng chủ biên). Cuốn sách tập hợp 12 bài viết của các chuyên gia, nhà nghiên cứu uy tín trong và ngoài Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, tập trung tìm hiểu những yếu tố Trung Hoa trong các loại hình văn hóa thuần túy bản địa cũng như vai trò của người Hoa trong việc chuyển tải văn hóa ở Việt Nam, nêu rõ những đặc điểm của sự hội nhập văn hóa Việt - Hoa và những biểu hiện cụ thể của sự hội nhập đó trên cơ sở sự kết hợp giữa các yếu tố "nội sinh" với yếu tố "ngoại sinh", trong đó hệ giá trị xã hội và tâm thức dân tộc đóng vai trò quan trọng là "màng lọc" để tiếp nhận những yếu tố văn hóa của các dân tộc khác, giúp cho văn hóa dân tộc phát triển mà vẫn giữ được sắc thái riêng của mình. Cuốn sách này đã được xuất bản lần đầu tiên năm 1998 với tiêu đề Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt - Hoa trong lịch sử. Trong lần xuất bản này, ghi nhận những đóng góp khoa học của các tác giả mà đến nay phần lớn đã đi xa, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật cố gắng giữ đúng tinh thần các bài nghiên cứu và coi đây là kết quả tham khảo, góp phần tìm hiểu sâu sắc và đầy đủ hơn sự giao tiếp văn hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng. FACT Sheet President Joseph R. Biden and General Secretary Nguyen Phu Trong Announce the U.S.-Vietnam Comprehensive Strategic Partnership The White House
Related documents
Preview textNỘI DUNG“VĂN HÓA VIỆT NAM MANG TÍNH TỔNG HỢP VÀ HỖN DUNG” QUAGIAO LƯU TIẾP BIẾN VĂN HÓA PHƯƠNG TÂYXuyên suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam đã trải qua những quá trình giao lưu với các nền văn hóa khác nhau để từ đó hỗn dung và tổng hợp nên một nền văn hóa hoàn chỉnh mang bản sắc Lạc Hồng. Trog số đó không thể nào không nhắc tới sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp, Nga và Mỹ. Sự tiếp xúc này hầu hết diễn ra trong hoàn cảnh chủ nghĩa thực dân và đế quốc đang diễn ra tại Việt Nam, song nó đã góp phần thúc đẩy quá trình hiện đại hóa đất nước. Bằng việc kết hợp các yếu tố ngoại sinh và những yếu tố sẵn có , Việt Nam đã tạo ra một cấu trúc văn hóa vừa hiện đại vừa mang tính dân tộc. Sau đây là tổng quan về quá trình giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây.
Hình tượng đức mẹ Maria trở thành nhân vật được nhắc đến rất nhiều trong đạo Công giáo do mối tương đồng với truyền thống thờ Mẫu của nước ta. Vào tháng hoa kính đức mẹ, người Công giáo còn đặc biệt tổ chức dâng hoa để tỏ lòng sùng kính. Kiến trúc phương Tây theo đạo Công giáo du nhập vào Việt Nam, song các công trình này đều biến đổi phù hợp với môi trường, khí hậu Việt Nam. Thay vì các tòa nhà cao và phòng ốc thấp như ở phương Tây thì các công trình khi hòa vào văn hóa Việt Nam lại mang nét đặc trưng của đất nước ta: chiều cao tối đa hai tầng với mái hiên, mái che cửa sổ để che mưa nắng, kết hợp cùng bố cục tam quan, lầu bát giác với hệ thống mái ngói,... Ví dụ điển hình là nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình) – một trong những công trình kiến trúc độc đáo của Việt Nam, đồng thời là một trong những nhà thờ công giáo vào loại cổ nhất Đông Nam Á. khoảng thời gian từ năm 1113 đến năm 1145) cho xây dựng nhằm tôn vinh, gắn kết với thần Vishnu và để kỷ niệm sự tái thống nhất của vương quốc sau một thời gian dài nội chiến, xung đột liên miên.
Như vâ ̣y, sự đa dạng văn hóa từ góc độ tôn giáo thể hiện qua sự phân chia thành 5 sắc màu. Sự đa dạng ấy không chỉ biểu hiện trong bức tranh tổng thể của cả khu vực mà mỗi nước trong từng nhóm được phân chia cũng không “đồng nhất” về văn hóa... Ngay trong Phật giáo cũng có sự khác nhau: cũng là công trình thờ Phật nhưng chùa chiền ở Việt Nam, Lào, Thái Lan khác với ở Campuchia, Myanmar; tháp Bayon không giống với Borobudur hay chùa Pagan. Tuy cùng là công trình Hindu giáo giáo nhưng Angkor Vat (Campuchia) không giống với đền Mỹ Sơn (Việt Nam). Điều này chính là minh chứng cho sự đa dạng văn hóa ở mỗi quốc gia Đông Nam Á trong tiến trình phát triển của mình.
với nền kĩ thuật khoa học Mĩ đã giúp đất nước có những thay đổi lớn trong các lĩnh vực: giao thông, xây dựng, lối sống văn minh công nghiệp,... Tiêu Cực Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, việc tiếp thu văn hóa Mĩ một cách bị động, thiếu chọn lọc đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến nền văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng.
Biểu hiện: nguyên tắc đạo đức cơ bản của chủ nghĩa thực dụng là chủ chủ nghĩa cá nhân, vì mình và cho mình. Để đạt được lợi ích đó, những người theo chủ nghĩa thực dụng đã không từ bỏ mọi âm mưu, thủ đoạn, sẵn sàng chà đạp lên mọi thứ (kể cả luật lệ). Cùng xuất hiện với đó là lối sống vị kỷ, vị lợi, buông thả bản thân để chạy theo đồng tiền mà bỏ rơi những phẩm chất quý báu của chính mình. Biểu hiện rõ nhất chính là những người chạy theo lợi ích vật chất – kinh tế bằng mọi giá. hiện đại được chuyên gia Liên Xô giúp đỡ. Liên bang Xô Viết đã giúp Việt Nam đào tạo 52 các bộ khoa học – kỹ thuật, họ đã trở thành những hạt giống đầu tiên được đào tạo bài bản mà sau này trở thành lực lượng nòng cốt trong các ngành, lĩnh vực đời sống đất nước.
Nhạc viện Traikovski là nơi đào tạo nhiều tài năng âm nhạc cho Việt Nam nhất: Đặng Thái Sơn, Tôn Nữ Nguyệt Minh, Tôn Thất Triêm, Đỗ Hồng Quân,... đều là những hạt giống được nuôi dưỡng từ đây. Liên Bang Nga cũng giúpViệt Nam đào tạo hạt nhân văn hóa nghệ thuật trong nhiều lĩnh vực khác như: mĩ thuật, múa, xiếc, nhiếp ảnh, kiến trúc,..ều họa sĩ được đào tạo từ trường họa Surikov. Các diễn viên mua bale, múa hiện đại, kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia ấy đã trở thành lực lượng nòng cốt, tạo dựng nên diện mạo mới cho văn hóa Việt Nam thời kì đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có thể thấy, mối giao lưu văn hóa Nga – Việt được xây dựng và phát triển trên nền tảng của tình hữu nghị gắn bó lâu dài giữa hai nước, đã được thử thách và kiểm chứng bởi thời gian. Tiếp tục củng cố, phát triển mối quan hệ đó trên tinh thần đối tác chiến lược không những đem lại lợi ích chung cho nhân dân hai nước mà còn góp phần củng cố hòa bình, sự phát triển và ổn định của toàn khu vực và thế giới. II. Kết luận Như vậy, từ sự phân tích trên ta có thể khẳng định sự giao lưu và tiếp biến với văn hóa phương Tây đã làm cho nền văn hóa Việt Nam ngày càng đặc sắc, phong phú. Và một lần nữa ta có thể khẳng định rằng văn hóa Việt Nam mang tính tổng hợp và dung chấp, chính kiểu văn hóa này đã làm đẹp thêm bức tranh bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời là cái nôi nuôi dưỡng trong con người Việt Nam về ý thức dân tộc, tinh thần bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc. |