Đánh giá là gì cho ví dụ năm 2024
Đo lường là hoạt động chỉ sự so sánh kết quả học tập ghi nhận được qua kiểm tra với những tiêu chuẩn, tiêu chí. Show
Câu 2. Chức năng của đánh giá trong giáo dục.
Câu 3. Các nguyên tắc đánh giá trong giáo dục.
Ngoài ra, môi trường diễn ra quá trình kiểm tra, đánh giá cũng có ảnh hưởng đến tính khách quan của đánh giá. Cần xây dựng các tiêu chí đánh giá cụ thể, rõ ràng, phù hợp với đặc thù môn học và công khai các tiêu chí này cho học sinh. Bồi dưỡng cho học sinh kĩ năng tự kiểm tra, đánh giá; ngăn ngừa thái độ đối phó, thiếu trung thực trong viết tiểu luận, kiểm tra, thi cử. Câu 4. Triết lí về đánh giá trong giáo dục. 3 triết lí đánh giá:
Mục tiêu đánh giá Học sinh tự phát hiện sự tiến bộ và khó khăn trong học tập của mình nhằm tự điều chỉnh việc học Giáo viên phát hiện sự tiến bộ và khó khăn trong học tập của học sinh nhằm điều chỉnh việc dạy và học Xác nhận kết quả học tập của HS để phân loại, đưa ra quyết định cho các giai đoạn học tập tiếp theo Căn cứ đánh giá So sánh với tiêu chí đánh giá xác định Nhận xét, so sánh với tiêuchí đánh giá xác định Điểm số, so sánh giữa cáchọc sinh với nhau Trọng tâm đánh giá Qúa trình học tập Quá trình học tập Kết quả học tập Thời điểm đánh giá Trước, trong và sau quá trình học tập Trước, trong và sau quá trình học tập Sau quá trình học tập Vai trò của giáo viên Hướng dẫn Chủ đạo hoặc giám sát Chủ đạo Vai trò của người học Chủ đạo Tham gia cùng giáo viên Không tham gia Người sử dụng kết quả đánh giá Giáo viên, học sinh Giáo viên, học sinh,cha mẹ học sinh Giáo viên Công cụ đánh giá Linh hoạt, vừa sức và không đòi hỏi tính chuẩn Đakhông đòi hỏi tính chuẩn dạng, linh hoạt và Đòi hỏi tính chuẩn Kiểm tra, đánh giá theo tiếp cận năng lực: - Đánh giá năng lực là một quá trình thu thập minh chứng về học sinh (những gì học sinh nói, viết, làm và tạo ra) trong một lĩnh vực học tập, nhằm hỗ trợ việc đánh giá về vị trí của học sinh trên đường năng lực từ mức thấp đến mức cao: ghi nhận những gì học sinh biết và có thể làm, những gì học sinh cần học tiếp một cách chủ động, tích cực. Kiểm tra, đánh giá phẩm chất: - Phẩm chất: là những tính tốt thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử của con người; cùng với năng lực tạo nên nhân cách của con người. - Đánh giá phẩm chất là đánh giá thái độ, hành vi ứng xử của người học trong một bối cảnh có ý nghĩa. Sự khác nhau giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng 6. các hình thức đánh giá trong dạy học (đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ) Trả lời:
Khái niệm đánh giá thường xuyên Đánh giá thường xuyên (ĐGTX) hay còn gọi là đánh giá quá trình là hoạt động đánh giá diễn ra trong tiến trình thực hiện hoạt động giảng dạy môn học, cung cấp thông tin phản hồi cho GV và HS nhằm mục tiêu cải thiện hoạt động giảng dạy, học tập. ĐGTX chỉ những hoạt động kiểm tra đánh giá được thực hiện trong quá trình dạy học, có ý nghĩa phân biệt với những hoạt động kiểm tra đánh giá trước khi bắt đầu quá trình dạy học một môn học nào đó (đánh giá đầu năm/đánh giá xếp lớp) hoặc sau khi kết thúc quá trình dạy học môn học này (đánh giá tổng kết). ĐGTX được xem là đánh giá vì quá trình học tập hoặc vì sự tiến bộ của người học. Mục đích đánh giá thường xuyên
Nội dung đánh giá thường xuyên ĐGTX tập trung vào các nội dung sau:
Thời điểm đánh giá thường xuyên Thực hiện linh hoạt trong quá trình dạy học và giáo dục, không bị giới hạn bởi số lần đánh giá Người thực hiện đánh giá thường xuyên Đối tượng tham gia ĐGTX rất đa dạng, bao gồm: GV đánh giá, HS tự đánh giá, HS đánh giá chéo, cha mẹ học sinh đánh giá và đoàn thể, cộng đồng đánh giá. Phương pháp, công cụ đánh giá thường xuyên Phương pháp kiểm tra, ĐGTX có thể sử dụng cả kiểm tra viết, quan sát và hỏi đáp, đánh giá thông qua sản phẩm. Công cụ có thể dùng là phiếu quan sát, các thang đo, bảng kiểm, thẻ kiểm tra/phiếu kiểm tra, các phiếu đánh giá tiêu chí, hồ sơ học tập, câu hỏi, bài tập... GV có thể thiết kế các công cụ phù hợp vời từng tình huống, bối cảnh đánh giá. Các yêu cầu, nguyên tắc của đánh giá thường xuyên
Khái niệm đánh giá định kì ĐGĐK là đánh giá kết quả giáo dục của HS sau một giai đoạn học tập, rèn luyện, nhằm xác định mức độ hoàn thành nhiệm vụ học tập của HS so với yêu cầu cần đạt so với quy định trong chương trình giáo dục phổ thông và sự hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất HS. Mục đích đánh giá định kì Mục đích chính của đánh giá định kỳ là thu thập thông tin từ HS để đánh giá thành quả học tập và giáo dục sau một giai đoạn học tập nhất định. Dựa vào kết quả này để xác định thành tích của HS, xếp loại HS và đưa ra kết luận giáo dục cuối cùng. Nội dung đánh giá định kì Đánh giá mức độ thành thạo của HS ở các yêu cầu cần đạt về phẩm chất, năng lực sau một giai đoạn học tập (giữa kỳ)/ cuối kỳ. Thời điểm đánh giá định kì nhỏ, cụ thể về các kiến thức đa dạng (kiểm tra rộng) và các vấn đề lớn có tính tổng hợp hoặc vận dụng cao (kiểm tra sâu). Bài kiểm tra viết thường bao gồm các dạng là kiểm tra trắc nghiệm khách quan, kiểm tra tự luận, kiểm tra tự luận kết hợp trắc nghiệm và bài luận, trong đó phổ biến là kiểm tra tự luận và trắc nghiệm.
− Ưu điểm: Trong cùng một thời gian GV kiểm tra được một số lượng lớn HS, giúp thu được thông tin về kiến thức và kĩ năng của HS. Do HS được kiểm tra tại cùng thời điểm, trong cùng một khoảng thời gian, ở điều kiện như nhau nên GV thu được các dư liệu tương đối khách quan về kết quả học tập. Kiểm tra dạng tự luận có khả năng đo lường được các mục tiêu gắn với năng lực nhận thức từ mức thấp (nhớ, hiểu) đến mức độ cao (vận dụng, phân tích, đánh giá, sáng tạo). Bài tự luận khi được thiết kế một cách cẩn thận có thể tạo điều kiện để HS bộc lộ khả năng suy luận, sắp xếp dữ kiện, tư duy phê phán, đề xuất những ý kiến, giải pháp mới. Việc chuẩn bị bài kiểm tra tự luận trong tổ chuyên môn là không quá khó khăn và không mất nhiều thời gian. − Nhược điểm: Dạng kiểm tra này có số lượng câu hỏi ít nên khó bao quát đượcnội dung của chương trình học. Việc đánh giá vẫn chịu ảnh hưởng nhiều ở chủ quan người chấm. Mặt khác, chấm điểm các bài tự luận tốn nhiều thời gian, độ tin cậy không cao. − Khi sử dụng kiểm tra tự luận cần lưu ý:
− Ưu điểm: Trắc nghiệm khách quan đo được các mức độ nhận thức cơ bản, phổ thông (nhận biết, thông hiểu, vận dụng). Do bao quát được phạm vi kiến thức rộng nên kiểm tra trắc nghiệm giúp khắc phục tình trạng HS học tủ, học lệch, ít phụ thuộc vào chủ quan người chấm − Nhược điểm: Trắc nghiệm khách quan khó đo lường khả năng tư duy, diễn đạt và hạn chế cơ hội HS đưa ra ý tưởng mới. Việc xây dựng ma trận đề sẽ mất nhiều thời gian, công sức. − Khi sử dụng trắc nghiệm khách quan cần chú ý:
Trong một đề kiểm tra nên sắp xếp câu hỏi theo chủ đề hoặc theo mức độ từ dễ đến khó.
Quan sát là phương pháp thu thập thông tin quan trọng trong lớp học thông qua quan sát (nhìn, nghe) đối tượng nghiên cứu. Khi thực hiện các hoạt động học thụ động (nghe giảng) hoặc chủ động (nhiệm vụ học tập) là HS đang cung cấp các dữ liệu dạng hình ảnh, âm thanh cho GV đo lường, đánh giá. GV thường quan sát hành vi, thái độ của HS (quan sát quá trình) hoặc sản phẩm do HS làm ra (quan sát sản phẩm).
Hỏi - đáp là phương pháp GV đặt câu hỏi và HS trả lời câu hỏi (hoặc ngược lại), nhằm gợi mở, thảo luận, rút ra những kiến thức mà HS cần lĩnh hội; nhằm củng cố, mở rộng hoặc kiểm tra, đánh giá kiến thức HS đã học. Ngoài ra, còn có hỏi đáp giữa HS với HS. Như vậy hỏi – đáp vừa làm phương pháp dạy học vừa làm phương pháp đánh giá, cung cấp các thông tin chính thức và không chính thức về HS một cách nhanh chóng, linh hoạt.
Hỏi - đáp là một phương pháp dạy học, đánh giá phổ biến ở mọi cấp học, đồng thời cũng là một kĩ thuật quản lí lớp học hiệu quả, thu hút sự chú ý của một HS nào đó đang mất tập trung. Phân loại theo mục đích, có những dạng hỏi - đáp:
− Ưu điểm: Kích thích tính độc lập tư duy ở HS để tìm ra câu trả lời tối ưu trong thời gian nhanh nhất; bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt bằng lời nói; tăng hứng thú; giúp GV thu tín hiệu ngược từ HS một cách nhanh − Nhược điểm: Dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng không tốt đến kế hoạch lên lớp cũng như mất nhiều thời gian để soạn hệ thống câu hỏi; Nếu không khéo léo sẽ không thu hút được toàn lớp mà chỉ là đối thoại giữa GV và một HS.
3 Phương pháp đánh giá qua sản phẩm học tập
Bất cứ hoạt động học tập nào của HS cũng đều có sản phẩm. Sản phẩm học tập là kết quả của hoạt động học tập của HS, là bằng chứng của sự vận dụng kiến thức, kĩ năng mà HS đã có. Thông qua sản phẩm học tập, GV đánh giá sự tiến bộ của HS, đánh giá quá trình tạo ra sản phẩm và đánh giá mức độ đạt được các năng lực của HS. Đánh giá qua sản phẩm học tập là phương pháp đánh giá kết quả học tập của HS khi những kết quả ấy được thể hiện bằng các sản phẩm.
Sản phẩm HS có thể tạo ra rất đa dạng: bài luận ngắn, phiếu học tập, bản ghi chép, báo cáo quan sát thực địa, báo cáo thực hành, biểu đồ, biểu bảng, tập san theo chủ đề, tranh vẽ tĩnh vật, dụng cụ thực hành/thí nghiệm tự chế tạo, mô hình STEM, poster báo cáo đề tài nghiên cứu KH-KT..ác sản phẩm học tập có thể phân loại như sau:
3 Phương pháp đánh giá qua hồ sơ học tập
Loại công cụ này sử dụng để đánh giá sản phẩm học tập của học sinh với các yêu cầu cụ thể mà một sản phẩm cần có.
Tạo thuận lợi cho việc ghi lại các bằng chứng về sự tiến bộ của học sinh trong một mục tiêu học tập nhất định. Giúp người học có thể tự đánh giá mức độ đạt được và chưa đạt được của sản phẩm học tập so với yêu cầu đặt ra. Thông qua đó, người học có thể tự điều chỉnh hoặc bổ sung những thao tác, kỹ năng, nội dung còn thiếu và hạn chế của mình.
Liệt kê tất cả các kỹ năng, các yêu cầu cần thực hiện của nhiệm vụ học tập. Đưa ra các yêu cầu cần đạt của sản phẩm học tập. Ngôn ngữ diễn đat cần phải rõ ràng, dễ hiểu để người học có thể tự đánh giá sản phẩm học tập của bạn.
Làm rõ sự mong đợi của người dạy đối với học động của người học. Chỉ rõ những quan điểm quan trọng của một quy trình sản phẩm. Giúp người học giám sát và tự nhận xét sản phẩm học tập của mình. Mang lại cho người học thông tin đầy đủ về sự thể hiện năng lực của người học.
Phân tích các yêu cầu cần đạt của nhiệm vụ học tậpđể xác định các tiêu chí cần đánh giá. Các tiêu chí đánh giá cần được diễn đạt sao cho có thể quan sát được sản phẩm hoặc hành vi của học sinh trong quá trình họ thực hiện các nhệm vụ. Xây dựng các mức độ thể hiện các tiêu chí đã xác định (3 đến 5 mức độ). Cần mô tả về các tiêu chí đánh giá ở mức độ cao nhất, thực hiện tốt nhất, sau đó mô tả về các tiêu chí ở các mức độ còn lại. Cần được thử nhiệm phiếu đánh giá nhằm phát hiện ra những điểm cần chỉnh sửa trước khi đem ra sử dụng chính thức.
Thang đo dạng số: đánh dấu hoặc khoanh vào một con số chỉ mức độ biểu hiện của một phẩm chất ở người được đánh giá. Thang đo dạng đồ thị: nhằm mô tả các mức độ biểu hiện của hành vi theo một trục đường thẳng.
Thang đo định hướng cho việc quan sát nhắm tới những loại hành vi cụ thể và hướng tới hành vi tốt nhất cần phải đạt tới. Thang đoc ung cấp một bảng tham chiếu chung để so sánh các học sinh về cùng một loại phẩm chất, đặc điểm,.. Thang đo cung cấp một phương pháp thuận tiện để ghi chép những đánh giá của người quan sát. Thang đo có thể được ứng dụng vào nhiều lĩnh vực trong đánh giá như đánh giá thực hành, đánh giá sản phẩm và đánh giá sự phát triển những kĩ năng xã hội của cá nhân.
Thang đo cần phải được xây dựng dựa trên những tiêu chí nhằm phục vụ những mục tiêu đánh giá cụ thể. Người quan sát phải thu thậpđược đầy đủ thông tin ghi trên thang đo.
Bài tập khai thác kênh chữ: Yêu cầu HS đọc thông tin và tóm tắt, lập dàn ý, vẽ sơ đồ, trả lời câu hỏi...
GV không chỉ quan tâm đến nội dung câu trả lời mà còn nên quan tâm đến quá trình HS tìm kiếm, thu thập thông tin, dữ liệu; phân tích, phát hiện và giải quyết vấn đề. GV có thể đánh giá kết quả làm bài tập của HS bằng cách cho điểm hoặc nhận xét. Trong trường hợp nhận xét, GV cần lưu ý như sau:
Tránh những nhận xét chung chung như: “chưa đúng/sai/làm lại”, “chưa đạt yêu cầu”, “lạc đề”, “cần cố gắng/có tiến bộ”. Đánh giá và nhận xét khác nhau như thế nào?Đối chiếu với khái niệm đo, nhận xét ở trên, chúng ta thấy: Đánh giá là một khái niệm bao hàm một quá trình. Đo, nhận xét chỉ nói lên một khâu của quá trình ấy. Hoạt động đánh giá là gì?Đánh giá thường xuyên là hoạt động đánh giá diễn ra trong tiến trình thực hiện hoạt động dạy học theo yêu cầu cần đạt và biểu hiện cụ thể về các thành phần năng lực của từng môn học, hoạt động giáo dục và một số biểu hiện phẩm chất, năng lực của học sinh. Có bao nhiêu loại hình đánh giá trong giáo dục?Dựa vào những thông tin giáo viên thu được các hoạt động kiểm tra đánh giá của bản thân, giáo viên có thể xây dựng một hệ thống đánh giá thường bao gồm 3 loại đánh giá giáo dục khác nhau phục vụ các mục đích khác nhau tùy thuộc vào thời điểm được thực hiện: đánh giá chẩn đoán (diagnostic assessment), đánh giá quá trình ... Kiểm tra đánh giá trong giáo dục là gì?Kiểm tra, đánh giá là một quá trình được tiến hành có hệ thống, để xác định mức độ đạt được về trình độ nắm kiến thức, kỹ xảo, kỹ năng trình độ phát triển tư duy và trình độ được giáo dục của người học trong quá trình dạy học. |