Cơ sở lý luận về chính sách kinh tế đối ngoại

Tải miễn phí bài Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại, các bạn có thể tải về kham khảo miễn phí, đây là đề tài tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh được giới thiệu cho các bạn sinh viên đang tìm kiếm tài liệu, ngoài ra các bạn có thể kham khảo thêm các bài tiểu luận về Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại trên chuyên mục tiểu luận Tư tưởng Hồ CHí Minh.

Show

Lưu ý: Trong quá trình viết tiểu luận Môn Tư tưởng Hồ CHí Minh nếu các bạn không có thời gian và cần hỗ trợ viết bài hoàn chỉnh, chất lượng tốt, các bạn có thể liên hệ với dịch vụ viết tiểu luận chất lượng qua Zalo: https://zalo.me/0932091562

I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ CẦN THIẾT CỦA QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI VÀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Theo Bác, thế giới là một khối thống nhất các quốc gia có sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau. Muốn giành được độc lập dân tộc, nhất định phải thiết lập những mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Việt Nam luôn coi trọng vấn đề quan hệ với các nước, không phân biệt đối tác đó là ai, thiết lập quan hệ đối ngoại, không bỏ sót bất kỳ ai và phải trên nguyên tắc độc lập chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau vì lợi ích chung cùng có lợi.

Theo Người, ngoại giao và kinh tế có ảnh hưởng lẫn nhau: “chúng tôi sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước” . Bác luôn xác định cần thiết phải thiết lập, mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng cùng có lợi.(Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

Bác Hồ thăm Liên Xô năm 1955

Tư duy của Bác về chính sách mở cửa, hội nhập đã được hình thành từ rất sớm. Ngay từ năm 1919, Người đã nhận định: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tăng cường” .“Là phi lý nếu nghĩ rằng hai dân tộc láng giềng như dân tộc An Nam và dân tộc Nhật Bản lại có thể cứ tồn tại biệt lập đối với nhau” . Khi trả lời nhà báo Mỹ Standley Harrison, Hồ Chí Minh đã nói: “Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà” 

Tư tưởng chiến lược kinh tế mở được Người đề cập tập trung, đầy đủ và rõ ràng nhất trong bức thư Người gửi cho Liên hợp quốc tháng 12/1946:

“…Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực.

  1. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
  2. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế.
  3. Nước Việt Nam chấp thuận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc.
  4. Nước Việt Nam sẵn sàng ký kết với các lực lượng hải quân, lục quân trong khuôn khổ của Liên hợp quốc những hiệp định an ninh đặc biệt và những hiệp ước liên quan đến việc sử dụng một vài căn cứ hải quân và không quân.

       … Chính sách mở cửa và hợp tác nói trên, Chính phủ Việt Nam cũng giành cho nước Pháp trong Hiệp định ngày 6/3/1946. Nhưng những người đại diện Pháp ở Đông Dương đã tìm cách phá hoại…” 

        Chiến tranh lạnh giữa hai phe sau Chiến tranh thế giới thứ hai không cho phép Người triển khai những ý tưởng đúng đắn hình thành ở Người từ rất sớm này. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi tình hình thế giới diễn biến phức tạp, thế giới chia thành hai phe, Hồ Chí Minh vẫn cố gắng tìm cách mở rộng quan hệ với các nước để vừa tận dụng sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn cho sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc đồng thời để xây dựng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam đấu tranh thống nhất nước nhà. (Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

        Hồ Chí Minh có cách xử lý riêng với từng đối tác tùy theo vị trí địa lý, quan hệ chính trị, lịch sử giữa Việt Nam với các đối tác, để từ đó vạch ra chính sách đối ngoại làm cơ sở co việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

         Trong bài phát biểu chúc mừng năm mới nhân dịp lễ mừng Trung ương Đảng và Chính phủ về thủ đô, Hồ Chí Minh đã chỉ ra phương châm quan hệ của nước ta với các nước bạn bè XHCN, với các nước trong bán đảo Đông Dương, với các nước Đông Nam Á, với nước Pháp và các nước trong hệ thống TBCN:

        “Chúng ta đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn. Chung ta sẽ dựa theo 5 nguyên tắc lớn của bản tuyên bố Trung –  Ấn và Trung – Miến (nay là Mianma) để gây quan hệ hữu hảo với hai chính phủ nhà vua Miến và Lào. phát triển quan hệ hữu hảo với các nước Đông – Nam Á.

        Đối với nước Pháp, chúng ta sẽ cố gắng lập lại mối quan hệ kinh tế và văn hóa trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên đều có lợi. Chúng ta đoàn kết với nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới” 

        Năm 1946, sau khi nước ta giành được độc lập, trong chuyến thăm nước Pháp, người đã nói: “Đối với nước Pháp, chúng tôi tiếp tục chủ trương rằng trong những điều kiện bình đẳng tuyệt đối và cùng có lợi, trước hết là tin cậy lẫn nhau và hợp tác thẳng thắn, chúng tôi có thể thiết lập những quan hệ đặc biệt về kinh tế và văn hóa với nước Pháp” 

Với các nước TBCN khác trên thế giới, Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhấn mạnh: “Trong quan hệ với các nước khác, chính sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là rõ ràng và trong sáng: đó là một chính sách hòa bình và quan hệ tốt. Chính sách đó dựa trên 5 nguyên tắc vĩ đại nêu trong các bản tuyên bố chung Trung – Ấn và Trung – Miến, tức là: tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau, không xâm phạm, không can thiệp vào các công việc nội bộ, bình dẳng và hai bên cùng có lợi, chung sống hòa bình” 

Hồ Chí Minh luôn có quan điểm độc lập dù trong điều kiện Chiến tranh lạnh giữa hai phe diễn ra gay gắt, luôn mong muốn Việt Nam có quan hệ bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, và mong muốn nhờ mối quan hệ, giúp đỡ của bên ngoài mà kinh tế, văn hóa Việt Nam có thể được nâng cao.

II. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

1. Nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại

Theo Người, nhiệm vụ của kinh tế đối ngoại bao gồm bốn nhiệm vụ mang tính chiến lược như sau:

Một là, khai thác các nguồn lực trong và ngoài nước nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,

Hai là, nhiệm vụ trước mắt phải đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, độc lập chủ quyền là vận mệnh số một của quốc gia, nó là mục tiêu bao trùm, mục tiêu của mọi mục tiêu,

Ba là, mở cửa kinh tế vừa là nhu cầu, vừa là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế,

Bốn là, tư tưởng của người trong việc lựa chọn đối tượng để mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về kinh tế đó là tất cả các dân tộc trên thế giới đều là bạn, là đối tượng hợp tác kinh tế.(Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

2. Nguyên tắc cơ bản trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

2.1. Nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa

Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong việc phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối với các nước lớn dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ, vừa hợp tác, vừa đấu tranh và bảo đảm lợi ích chính đáng của dân tộc. Độc lập, tự chủ phải đi đôi với giữ gìn bản sắc dân tộc.

Việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế chủ yếu về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý nhằm phát huy lợi thế, tăng sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mọi hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại đều phải hướng vào mục tiêu đó, tránh tình trạng vì lợi ích kinh tế trước mắt, xa rời mục tiêu dẫn đến chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

2.2. Nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi

Bác khẳng định là nguyên tắc quan trọng, cơ sở vững chắc duy trì, mối quan hệ giữa các bên.  Bác luôn khẳng định: các nước đều có thể mở rộng quan hệ hợp tác trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền lẫn nhau và hợp tác cùng có lợi.

Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quan trọng trước hết phải được thể hiện ở việc đảm bảo lợi ích kinh tế, chính trị của các bên quan hệ, trước hết là lợi ích kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế. Suy cho cùng trong quan hệ quốc tế các bên tham gia cũng chính là nhằm tới mục tiêu lợi ích trước mắt hoặc lâu dài. Tuy nhiên, mục tiêu và phương thức thực hiện không giống nhau.

XEM THÊM ==> DOWNLOAD 999+ TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2.3. Nguyên tắc mềm dẻo, linh hoạt

Người luôn căn dặn: “Phải nắm giữ nguyên tắc cứng rắn với sách lược mềm dẻo”, “lạc mềm nhưng buộc chặt”

Mềm dẻo, linh hoạt trong tập hợp lực lượng thêm bạn, bớt thù

2.4. Nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ

Trong cộng đồng quốc tế, mỗi quốc gia với tư cách là quốc gia độc lập đều có chủ quyền về chính trị, kinh tế, xã hội và địa lý. Vì vậy, trong quan hệ kinh tế, các bên quan hệ phải tôn trọng, đồng thời trên cơ sở tôn trọng chủ quyền không được phép can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đó cũng chính là yêu cầu của nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.

Đấu tranh cho hòa bình, cùng tồn tại hòa bình trở thành mục tiêu phấn đấu của phần lớn các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Hòa bình của mỗi quốc gia có được trên cơ sở của độc lập tự do và toàn vẹn lãnh thổ. Bác luôn coi trọng chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, tự lực, tự cường nhưng không rơi vào chủ nghĩa biệt lập, hẹp hòi.

3. Một số đối tác cần ưu tiên trong quan hệ kinh tế đối ngoại

Theo quan điểm của Bác, cần ưu tiên đặt mối quan hệ kinh tế đối ngoại với một số đối tác đặc biệt như:

+ Ưu tiên thiết lập quan hệ kinh tế đối ngoại với Liên Xô và Trung Quốc

+ Chú trọng thiết lập các quan hệ kinh tế, thương mại với các nước láng giềng

+ Củng cố quan hệ kinh tế với nước Pháp

+ Đối với các nước còn lại trong cộng đồng thế giới, Bác luôn khẳng định muốn giao dịch với tất cả các nước muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà.(Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của ngoại lực, thu hút ngoại lực để phát huy nội lực, coi nội lực là chính, ngoại lực là quan trọng

Người khẳng định, độc lập chủ quyền của mỗi quốc gia không tách rời với hợp tác kinh tế quốc tế. Hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn vốn, khoa học, công nghệ, thị trường nhằm phát triển kinh tế. Phát huy sức mạnh nội lực, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau vì lợi ích chung của mỗi dân tộc.

Bác Hồ tiếp Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông

–  Hồ Chí Minh kiên trì quan điểm mở rộng quan hệ với các nước XHCN, với các nước láng giềng và các nước có chế độ chính trị khác nhau.

 – Mục đích: nhằm góp phần duy trì sự ổn định trong khu vực và trên thế giới để nhân dân ta được sống trong không khí hòa bình, tự do và  thu hút mọi nguồn lực nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân ta.

Trên báo Cứu quốc ngày 23/10/1945, Hồ Chí Minh đã nói rõ mục tiêu này: “Có thể rằng: chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác, chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay tàu, đến đây giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia” 

– Tuy nhiên, mục tiêu cơ bản của việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước chính là để có điều kiện phát huy những tiềm năng của Việt Nam. Đó là quan điểm thu hút ngoại lực để phát huy nội lực của Người. Đó là vì:

Một là, tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh là tư tưởng tự lực cánh sinh dựa vào sức mình là chính. Theo Bác, phát huy sức mạnh dân tộc, coi đó là nguồn lực nội sinh, giữ vai trò quyết định

Báo cáo về kết quả chuyến đi thăm Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ thêm: “Cũng như trong thời kỳ kháng chiến, phương châm của ta hiện nay là: tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ” 

Hai là, Người cho rằng vì sự giúp đỡ của bạn dù có vô tư và to lớn bao nhiêu cũng chỉ có hạn.

“Sự giúp đỡ của các nước bạn chỉ có hạn. Căn bản là ta phải tự lực cánh sinh, cố gắng sản xuất” 

III. QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

        Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại, cần chú ý các vấn đề sau đây:  

1. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại nói chung với chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng

Đây là mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế, do vậy, chúng ta phải làm sao có sự gắn bó giữa công tác đối ngoại với xây dựng kinh tế của đất nước. Ưu tiên và chú trọng giải quyết quan hệ đối ngoại làm cơ sở cho quan hệ kinh tế đối ngoại.

Người chủ trương mở rộng quan hệ đối ngoại theo thứ tự ưu tiên sau đây:

        – Trước hết là các nước XHCN anh em (khi còn phe XHCN).

– Sau đó là quan hệ với lào và Campuchia, những nước láng giềng gần gũi cùng trong bán đảo Đông Dương, có nhiều gắn bó quan hệ từ lâu.

– Thứ ba là quan hệ với các nước có vị trí địa lý gần gũi và có điều kiện gần giống Việt Nam (cả về kinh tế và về chính trị – mới thoát khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân) ở khu vực châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Inđônêxia.(Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

– Cuối cùng là các nước dân chủ khác, trong đó Người đặc biệt chú ý đến quan hệ Việt – Pháp xuất phát từ quan hệ lịch sử lâu đời, đặc biệt giữa hai quốc gia.

Điều cần rút ra ở đây là chúng ta cần quán triệt quan điểm mở rộng cửa hữu nghị để cùng các bạn làm ăn trên tinh thần tin cậy lẫn nhau, hai bên cùng có lợi mà Hồ Chí Minh đã đề ra từ rất sớm và rất kiên trì theo đuổi trong suốt cuộc đời của Người.

Đường lối đối ngoại là cơ sở chính trị để từ đó xây dựng đường lối kinh tế đối ngoại. Mối quan hệ giữa đường lối đối ngoại và đường lối kinh tế đối ngoại là mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế. Vì thế, chúng ta phải làm sao có sự gắn bó giữa công tác đối ngoại với việc xây dựng kinh tế của đất nước.

Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã nêu:

“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế… Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…” 

“Phát triển quan hệ với tất cả các nước, các vùng lãnh thổ trên thế giới và các tổ chức quốc tế theo nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình; tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.” 

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhấn mạnh: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;… Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị – xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

2. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là để thu hút ngoại lực nhằm phát huy nội lực

Mục tiêu cơ bản nhất của mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là thu hút ngoại lực nhằm phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân Việt Nam. Để thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh, cần giải quyết các việc sau đây:

Một là, cần tập trung và hoàn thiện môi trường và chuẩn bị những điều kiện kinh tế trong nước cho việc mở cửa nền kinh tế trên các mặt:

– Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng

– Đào tạo nguồn nhân lực

– Cải cách hành chính

Hai là, phải tiếp tục xây dựng môi trường pháp lý phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế.

Một môi trường pháp lý lành mạnh sẽ là nhân tố hấp dẫn đầu tư nước ngoài, bời vì các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào kinh doanh không gặp những phiền hà, rắc rối, thu được lợi nhuận thỏa đáng và được nhà nước đảm bảo lợi ích hợp pháp cho họ. Cùng với việc có một bộ luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, cần cải cách hệ thống hành chính, chống quan liêu, tham nhũng… là những việc cấp bách để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài.

3. Giữ vững các nguyên tắc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

Cần phải giữ vững và tăng cường tính độc lập, tự chủ về kinh tế, chính trị. Đó là quan điểm có tính nguyên tắc trong hội nhập quốc tế, trước hết là quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đồng thời đối phó, thắng với các thách thức trong hội nhập.

Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, Đảng ta đã không ngừng quán triệt những nguyên tắc cơ bản trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, gồm:

– Nguyên tắc bình đẳng: Để quán triệt nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ quốc tế nói chung, quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng yêu cầu phải tiếp tục đấu tranh giành quyền bình đẳng thực sự, đồng thời tạo ra những tiền đề cần thiết để duy trì sự bình đẳng đó.

– Nguyên tắc cùng có lợi:  Phải nâng cao trình độ hiểu biết về việc xây dựng, ký kết các điều khoản quy định quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong các hợp đồng. Chính lợi ích các bên trong quan hệ được cụ thể hóa trong các điều khoản đó.

– Nguyên tắc tôn trọng chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia: Để thực hiện nguyên tắc này, đòi hỏi mỗi bên trong các quan hệ phải tôn trọng các điều khoản ký kết, không đưa ra những điều kiện phương hại đến lợi ích của nhau, không được dùng các biện pháp có tính chất can thiệp vào nội bộ của các quốc gia, đặc biệt là không dùng các thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật, kích động, can thiệp vào đường lối chính trị của các quốc gia, tôn trọng quyền tự lựa chọn con đường phát triển của các quốc gia.

– Nguyên tắc giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN: mọi thành tựu đạt được đều phải phục vụ nhân dân, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phải điều tiêt thu nhập giữa các lĩnh vực, các vùng. Trong điều kiện toàn cầu hóa đang được đẩy mạnh, việc chủ động hội nhập tranh thủ các nguồn lực bên ngoài là hết sức cần thiết, song cần phải đề cao việc vừa hợp tác, vừa đấu tranh để đảm bảo lợi ích chính đáng, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.(Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

XEM THÊM ==> DỊCH VỤ VIẾT THUÊ TIỂU LUẬN

IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA

1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại qua các kỳ Đại hội của Đảng

        Quá trình đổi mới, đồng thời là quá trình từng bước vận dụng tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại của Đảng ta thông qua các kỳ Đại hội Đảng

1.1. Đại hội lần thứ VI của Đảng

Đại hội lần thứ VI của Đảng đã khẳng định:

“Nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế trong chặng đường đầu tiên cũng như sự nghiệp phát triển khoa học – kỹ thuật và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa của nước ta tiến hành nhanh hay chậm, điều đó phụ thuộc một phần quan trọng vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại” 

Muốn kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao động quốc tế; trước hết và chủ yếu là mở rộng quan hệ phân công, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học – kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.

Trong toàn bộ công tác kinh tế đối ngoại, khâu quan trọng nhất là đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu.(Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

1.2. Đại hội lần thứ VII của Đảng

Đại hội lần thứ VII của Đảng đã nêu rõ phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại:

“Đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Củng cố và tăng cường vị trí ở các thị trường quen thuộc và với các bạn hàng truyền thống, tích cực thâm nhập, tạo chỗ đứng ở các thị trường mới, phát triển các quan hệ mới”[15]

Đa dạng hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại. Huy động tiềm năng của nền kinh tế, phát huy lợi thế so sánh, vừa đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và đời sống trong nước, vừa hướng mạnh về xuất khẩu. Tiếp tục coi trọng các thị trường truyền thống, đồng thời nhanh chóng thâm nhập thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực. Cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông sản, thuỷ sản. Sớm tạo được một số mặt hàng gia công, lắp ráp, chế biến có công nghệ hiện đại, có sức cạnh tranh trong xuất khẩu. Phát triển du lịch, vận tải hàng không, thông tin, bưu điện quốc tế và các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác. Mở rộng hợp tác lao động và chuyên gia. Phát triển hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm. Có chính sách thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta, trước hết vào lĩnh vực sản xuất, dưới nhiều hình thức.

1.3. Đại hội lần thứ VIII của Đảng

Đại hội lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của kinh tế đối ngoại:

“Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng” (Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, bằng cách:

Một là, đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỉ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỉ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Tăng nhanh xuất khẩu dịch vụ. Nâng cao tỉ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển sản xuất phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Có chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.

Hai là, điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập khu vực vừa hội nhập toàn cầu, xử lý đúng đắn lợi ích giữa ta với các đối tác.

Ba là, chủ động tham gia cộng đồng thương mại thế giới, các diễn đàn, các tổ chức, các định chế quốc tế một cách có chọn lọc, với bước đi thích hợp.

Bốn là, việc sử dụng vốn vay và thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài phải theo quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành và vùng lãnh thổ, bảo đảm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

1.4. Đại hội lần thứ IX của Đảng

Đại hội lần thứ IX của Đảng quán triệt:

“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.

Nhiệm vụ đối ngoại là tiếp tục giữ vững môi trường hoà bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm độc lập và chủ quyền quốc gia, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội(Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các bộ, ngành và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế – xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế” 

1.5. Đại hội lần thứ X của Đảng

Trong Văn kiện Đại hội lần thứ X, Đảng ta khẳng định:

“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” 

Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.

1.6. Đại hội lần thứ XI của Đảng

“Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hoà bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam

1.7. Đại hội lần thứ XII của Đảng

Gần đây nhất, Đại hội lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh:

“Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia – dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, hoạt động đối ngoại nhằm phục vụ mục tiêu giữ vưng môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân… 

2. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

Để việc học tập, quán triệt và đặc biệt là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong chính sách đối ngoại trong lĩnh vực kinh tế nói chung, ở đây là phương diện kinh tế đối ngoại nói riêng một cách hiệu quả, cần chú ý một số vấn đề chính sau:

Thứ nhất, xác định đúng mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế đối ngoại.

Chính sách đối ngoại đúng đắn, rõ ràng là cơ sở chính trị để từ đó xây dựng chính sách kinh tế đối ngoại có hiệu quả. Trên thực tế, chủ trương và thực hiện đường lối đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ và chủ động hội nhập quốc tế, trước hết là về kinh tế, nhằm tranh thủ cao độ ngoại lực để phát huy tối đa nội lực. Hai vấn đề này bổ sung cho nhau một cách biện chứng. Trong bối cảnh mới hiện nay, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra một cách mạnh mẽ, đan xen lẫn nhau, vừa có điều kiện thuận lợi, nhưng cũng vừa có nhiều mặt phức tạp, nên đòi hỏi cả hai mặt chính trị và kinh tế trong chính sách đối ngoại của Việt Nam phải được gắn chặt và xử lý một cách linh hoạt hơn nữa trên cơ sở giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thắng lợi về chính trị trong chính sách đối ngoại sẽ tạo cho chúng ta có tiếng nói riêng trên trường quốc tế và những thành quả đó suy cho cùng là để mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút các nguồn lực từ bên ngoài, khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam nhằm phục vụ sự phát triển kinh tế của đất nước. Có thể nói, việc xây dựng một chính sách đối ngoại đúng đắn, kết hợp hài hòa được cả hai mặt chính trị và kinh tế sẽ giúp Việt Nam khai thác tối đa được tiềm năng của đất nước, góp phần sớm hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vào năm 2020 như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra.

Thứ hai, hoạt động đối ngoại có vai trò quan trọng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế. (Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

Nghị quyết số 07/NQ-TW của Bộ Chính trị (khóa IX) Về hội nhập kinh tế quốc tế chỉ rõ: Các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài cần coi việc phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế của đất nước là một nhiệm vụ hàng đầu. Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế cần được hiểu theo nghĩa rộng, tức là phát huy những thế mạnh riêng của toàn ngành đối ngoại vào công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Đối ngoại phục vụ kinh tế có nghĩa là định hướng hoạt động đối ngoại vào việc khai thác triệt để những thuận lợi và điều kiện từ các mối quan hệ quốc tế để làm lợi cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước.

Vì thế, hoạt động đối ngoại cần quan tâm tới mặt hiệu quả kinh tế và coi đây vừa là một nhiệm vụ trọng tâm, vừa là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của toàn ngành ngoại giao trong giai đoạn hiện nay. Phải lấy kết quả thiết thực trong việc phục vụ phát triển kinh tế làm thước đo và tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của hoạt động đối ngoại. Đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế thể hiện ở việc tranh thủ mọi nguồn ngoại lực cho quốc gia. Đây có thể được coi là một nhiệm vụ mới, rất quan trọng và nặng nề đặt ra đối với ngành đối ngoại Việt Nam. Mọi hoạt động đối ngoại cần phải nhằm phục vụ thiết thực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế nhanh và vững chắc. Hoạt động đối ngoại phải không ngừng quảng bá, cải thiện hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; bên cạnh đó, cần tăng cường các hoạt động có hiệu quả thiết thực trong các cơ chế, diễn đàn đa phương và song phương nhằm tìm kiếm đối tác và thị trường xuất khẩu, làm tốt vai trò trung gian, môi giới và làm cầu nối trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ, giáo dục. Tìm kiếm và mở rộng thị trường cũng là vấn đề quan trọng, bởi thị trường quyết định đến việc tiêu thụ sản phẩm cho mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh dịch vụ, từ đó quyết định hướng đầu tư, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế chung. Để phát triển kinh tế đối ngoại, Việt Nam cần coi trọng và mở rộng cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài.

Thứ ba, đa dạng hóa chính sách kinh tế đối ngoại là để phát huy tiềm năng kinh tế của đất nước.

Quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc mở rộng quan hệ kinh tế với các nước không phải chỉ nhằm nhận sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế để bù đắp sự thiếu hụt ở trong nước, mà chính là thông qua sự giúp đỡ đó để phát huy những tiềm năng, lợi thế của Việt Nam. Đó là quan điểm thu hút ngoại lực để phát huy nội lực của Người. Phát triển và vận dụng quan điểm đó, Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Vì thế, Việt Nam cần tạo lập, hoàn thiện môi trường để tạo những điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa nền kinh tế trên các lĩnh vực và nhanh chóng hình thành đồng bộ hệ thống huy động vốn từ trong nước, cũng như thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn trong nước tạo ra nội lực làm cho nền kinh tế Việt Nam ổn định trước những biến động của thị trường thế giới và khu vực.

Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách kinh tế đối ngoại theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.  

Xu hướng quản lý hiện đại đòi hỏi hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách phải được xây dựng theo hướng chi tiết, cụ thể hóa, có thể điều chỉnh được các hành vi của xã hội. Mọi lĩnh vực hoạt động đều phải tuân theo pháp luật, tránh tình trạng luật pháp chỉ quy định chung chung, do đó phải kéo theo rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật khiến cho tình hình càng thêm phức tạp. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại cũng vậy, nếu những quy định trong các bộ luật và luật vẫn cứ chung chung sẽ không những gây khó khăn cho các cơ quan quản lý của Nhà nước mà còn làm ảnh hưởng cả đến hoạt động đầu tư, thương mại, từ đó sẽ dẫn đến ách tắc trong hoạt động kinh doanh, làm mất thời gian, chi phí và cơ hội, dễ tạo điều kiện cho các hiện tượng tiêu cực phát triển. Cùng với việc có một bộ luật hoàn chỉnh, thông thoáng, bình đẳng, chặt chẽ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; cần tiếp tục cải cách thể chế, bộ máy và thủ tục hành chính theo hướng gọn nhẹ, có hiệu lực, hiệu quả là những việc cấp bách để thu hút đầu tư nước ngoài trong bối cảnh hiện nay.(Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

Thứ năm, tiếp tục nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút đầu tư nước ngoài.

Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng tốt là điều kiện cần thiết để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Hệ thống giao thông, cầu cảng, hệ thống chuyển tải điện, hệ thống bưu chính, viễn thông, những khu công nghiệp tập trung đầy đủ điều kiện thuận lợi cho sản xuất sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Quy hoạch thu hút đầu tư phải xuất phát từ chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, quán triệt các quan điểm và định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế để hình thành ngành kinh tế trọng điểm và mũi nhọn. Từ đó, quy hoạch chi tiết giữa vốn đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, trên cơ sở đó xây dựng những danh mục sản phẩm gọi vốn đầu tư nước ngoài theo nhu cầu thực sự của đất nước. Công tác quy hoạch đúng đắn và hợp lý sẽ giúp chúng ta đầu tư đúng chỗ, tránh dàn trải, lãng phí và nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.

Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ kinh tế đối ngoại có phẩm chất chính trị vững vàng và trình độ chuyên môn giỏi đáp ứng lộ trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm bảo vệ lợi ích của đất nước.

Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và đội ngũ công nhân lành nghề đủ sức đáp ứng nhu cầu hợp tác với nước ngoài đang là vấn đề cấp bách trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Cần chú trọng đào tạo đội ngũ các chuyên gia giỏi về kinh tế, kỹ thuật; có năng lực thẩm định; có khả năng thương thuyết với đối tác nước ngoài và am hiểu sâu sắc về luật pháp quốc tế. Nhanh chóng đào tạo cho được đội ngũ công nhân lành nghề trên nhiều lĩnh vực, đáp ứng được đòi hỏi của công nghệ mới rất đa dạng với nhiều nguồn gốc khác nhau. Ngoài năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp tốt, đội ngũ chuyên gia, cán bộ, công nhân phải có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định với đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. (Tiểu luận: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại)

Trên đây là tiểu luận môn Tư tưởng Hồ Chí Minh đề tài: Quan điểm của Hồ Chí Minh về kinh tế đối ngoại, dành cho các bạn đang làm tiểu luận môn học đại cương: còn nhiều bài mẫu tiểu luận môn học các bạn tìm kiếm trên chuyên mục nhé. 

Lưu ý: Có thể trên website không có tài liệu đúng như các bạn mong muốn để hoàn thiện bài làm hoàn toàn mới và chất lượng tốt các bạn có thể cần tới sự hỗ trợ của dịch vụ viết tiểu luận để kham khảo bảng giá và quy trình làm việc các bạn có thể trao đổi với mình qua SDT/Zalo: https://zalo.me/0932091562

DOWNLOAD FILE