Chủ đầu tư thanh toán cho nhà thầu phụ năm 2024

Theo quy định tại Luật Đấu thầu 2013 thì nhà thầu chính là nhà thầu chịu trách nhiệm tham dự thầu, đứng tên dự thầu và trực tiếp ký, thực hiện hợp đồng nếu được lựa chọn. Nhà thầu chính có thể là nhà thầu độc lập hoặc thành viên của nhà thầu liên danh; còn nhà thầu phụ là nhà thầu tham gia thực hiện gói thầu theo hợp đồng được ký với nhà thầu chính. Nhà thầu phụ đặc biệt là nhà thầu phụ thực hiện công việc quan trọng của gói thầu do nhà thầu chính đề xuất trong hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất trên cơ sở yêu cầu ghi trong hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu.

Nhà thầu chính và nhà thầu phụ trong một dự án đầu tư có mối quan hệ chặt chễ với nhau trên cơ sở hợp đồng. Và loại hợp đồng này được gọi là hợp đồng thầu phụ.

Theo đó, Theo quy định tại Nghị định 37/2015/NĐ-CP thì hợp đồng thầu phụ là hợp đồng xây dựng được ký kết giữa nhà thầu chính hoặc tổng thầu (gọi tắt là nhà thầu chính) với nhà thầu phụ. Khi ký hợp đồng thầu phụ, nhà thầu chính hoặc nhà thầu nước ngoài phải thực hiện theo các quy định sau:

- Chỉ được ký kết hợp đồng thầu phụ đúng với năng lực hành nghề, năng lực hoạt động của nhà thầu phụ.

- Nhà thầu nước ngoài khi thực hiện hợp đồng xây dựng trên lãnh thổ Việt Nam với vai trò là nhà thầu chính phải sử dụng nhà thầu phụ trong nước đáp ứng được các yêu cầu của gói thầu và chỉ được ký hợp đồng thầu phụ với các nhà thầu phụ nước ngoài khi các nhà thầu phụ trong nước không đáp ứng được yêu cầu của gói thầu. Đối với các vật tư, thiết bị tạm nhập tái xuất phải được quy định cụ thể trong hợp đồng theo nguyên tắc ưu tiên sử dụng các vật tư, thiết bị trong nước đáp ứng được yêu cầu của gói thầu.

- Đối với các nhà thầu phụ không có trong danh sách thầu phụ kèm theo hợp đồng thì phải được chủ đầu tư chấp thuận.

- Nhà thầu chính phải chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư về tiến độ, chất lượng, an toàn lao động, bảo vệ môi trường, sai sót của mình và các công việc do các nhà thầu phụ thực hiện.

- Nhà thầu chính không được giao lại toàn bộ công việc theo hợp đồng cho nhà thầu phụ thực hiện.

Tuy nhiên, khi thực hiện thanh toán đối với hợp đồng thầu phụ thì chủ đầu tư thanh toán trực tiếp cho nhà thầu phụ trên cơ sở đề xuất thanh toán của nhà thầu chính hoặc tổng thầu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

Như vậy: Trường hợp các bên tham gia hợp đồng thầu phụ và chủ đầu tư dự án xây dựng không có thỏa thuận khác về việc thanh toán đối với hợp đồng thầu phụ, thì về nguyên tắc chủ đầu tư dự án xây dựng sẽ căn cứ đề xuất thanh toán của nhà thầu chính để thực hiện thanh toán hợp đồng phụ trực tiếp cho nhà thầu phụ.

Do đó: Trường hợp công ty bạn là nhà thầu phụ chuyên cung cấp lắp ráp các cửa (doors, windows) của một dự án công trình xây dựng và có ký hợp đồng với công ty xây dựng là nhà thầu chính của dự án này, nhưng được chủ đầu tư thanh toán hợp đồng phụ là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về việc xuất hóa đơn:

Tại Điểm b Khoản 1 Điều 16 Thông tư 39/2014/TT-BTC được sửa đổi bởi Điểm a Khoản 7 Điều 3 Thông tư 26/2015/TT-BTC có quy định:

"Điều 16. Lập hóa đơn

1. Nguyên tắc lập hóa đơn

...

  1. Người bán phải lập hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ, bao gồm cả các trường hợp hàng hoá, dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu; hàng hoá, dịch vụ dùng để cho, biếu, tặng, trao đổi, trả thay lương cho người lao động (trừ hàng hoá luân chuyển nội bộ, tiêu dùng nội bộ để tiếp tục quá trình sản xuất).

Nội dung trên hóa đơn phải đúng nội dung nghiệp vụ kinh tế phát sinh; không được tẩy xóa, sửa chữa; phải dùng cùng màu mực, loại mực không phai, không sử dụng mực đỏ; chữ số và chữ viết phải liên tục, không ngắt quãng, không viết hoặc in đè lên chữ in sẵn và gạch chéo phần còn trống (nếu có). Trường hợp hoá đơn tự in hoặc hoá đơn đặt in được lập bằng máy tính nếu có phần còn trống trên hoá đơn thì không phải gạch chéo."

Như vậy: Căn cứ quy định được trích dẫn trên đây thì về nguyên tắc người bán khi bán hàng hóa, dịch vụ phải lập hóa đơn cho người mua.

Đồng nghĩa, về nguyên tắc thì trường hợp nhà thầu phụ ký hợp đồng và chịu trách nhiệm với nhà thầu chính thì nhà thầu phụ phải thực hiện xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho nhà thầu chính theo quy định của pháp luật.

Do đó: Trường hợp công ty bạn là nhà thầu phụ chuyên cung cấp lắp ráp các cửa (doors, windows) của một dự án công trình xây dựng và có ký hợp đồng với công ty xây dựng là nhà thầu chính của dự án này thì công ty bạn trách nhiệm xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho công ty xây dựng là nhà thầu chính theo quy định (chứ không xuất hóa đơn cho chủ đầu tư dự án).

Khi đó, công ty xây dựng là nhà thầu chính của dự án có trách nhiệm xuất hóa đơn giá trị gia tăng cho chủ đầu tư dự án xây dựng để chủ đầu tư ghi nhận chi phí.

Trong quá trình nghiên cứu pháp luật về đấu thầu, ông Cù Ngọc Tuấn (Hà Nội) gặp tình huống sử dụng nhà thầu phụ của gói thầu X như sau:

Theo kế hoạch lựa chọn nhà thầu được phê duyệt, gói thầu X (cung cấp dịch vụ tư vấn) có hình thức lựa chọn nhà thầu là đấu thầu rộng rãi trong nước, giá trị gói thầu 14 tỷ đồng, thời gian bắt đầu tổ chức lựa chọn nhà thầu quý III/2021, nguồn vốn ngân sách nhà nước.

Nhà thầu trúng thầu thực hiện gói thầu X là liên danh nhà thầu B, C (trong đó, nhà thầu C là nhà thầu chính và đứng đầu liên danh theo thỏa thuận liên danh giữa hai nhà thầu). Nhà thầu liên danh B, C không kê khai danh sách các nhà thầu phụ và không kê khai công việc thuộc gói thầu X sử dụng nhà thầu phụ trong hồ sơ dự thầu.

Khi thương thảo hợp đồng ngày 15/10/2021, nhà thầu C đề xuất sử dụng nhà thầu phụ D và được chủ đầu tư chấp thuận. Trên cơ sở đó, ngày 20/10/2021 chủ đầu tư ký hợp đồng thực hiện gói thầu X với liên danh nhà thầu B, C (trong hợp đồng thể hiện nhà thầu liên danh B, C có sử dụng nhà thầu phụ D).

Ngày 22/10/2021, nhà thầu liên danh B, C ký hợp đồng thầu phụ với nhà thầu phụ D với giá trị bằng 27% giá trị hợp đồng đã ký với chủ đầu tư để thực hiện một phần công việc trong gói thầu X.

Ông Tuấn hỏi, nhà thầu C đề xuất sử dụng nhà thầu phụ D có đúng quy định pháp luật về đấu thầu không? Chủ đầu tư chấp thuận cho liên danh nhà thầu B, C được sử dụng nhà thầu phụ D trong biên bản thương thảo hợp đồng và trong hợp đồng ký với chủ đầu tư có đúng quy định pháp luật không?

Trường hợp thực hiện không đúng quy định pháp luật về sử dụng nhà thầu phụ trong tình huống nêu trên thì chủ đầu tư và liên danh nhà thầu B, C phải thực hiện giải quyết thế nào đối với các hợp đồng đã ký để bảo đảm đúng quy định pháp luật, đồng thời phải xử lý trách nhiệm của chủ đầu tư theo các quy định nào của pháp luật hiện hành?

Điểm b Khoản 2 Điều 128 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 có được hiểu là chỉ những công việc mà nhà thầu chính đã kê khai sử dụng nhà thầu phụ trong hồ sơ dự thầu thì mới được sử dụng nhà thầu phụ cho công việc đã kê khai? Nhà thầu phụ ngoài danh sách các nhà thầu phụ nêu trong hồ sơ dự thầu được chủ đầu tư chấp thuận cũng chỉ được thực hiện các công việc mà nhà thầu chính đã kê khai sử dụng nhà thầu phụ trong hồ sơ dự thầu có phải không?

Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 128 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP, nhà thầu chính được ký kết hợp đồng với các nhà thầu phụ trong danh sách các nhà thầu phụ nêu trong hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất. Việc sử dụng nhà thầu phụ sẽ không làm thay đổi các nghĩa vụ của nhà thầu chính. Nhà thầu chính phải chịu trách nhiệm về khối lượng, chất lượng, tiến độ và các trách nhiệm khác đối với phần công việc do nhà thầu phụ thực hiện.

Tại Khoản 8 Điều 89 Luật Đấu thầu quy định, "nhà thầu chuyển nhượng cho nhà thầu khác phần công việc thuộc gói thầu có giá trị từ 10% trở lên hoặc dưới 10% nhưng trên 50 tỷ đồng (sau khi trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ) tính trên giá hợp đồng đã ký kết; chủ đầu tư, tư vấn giám sát chấp thuận để nhà thầu chuyển nhượng công việc thuộc trách nhiệm thực hiện của nhà thầu, trừ phần công việc thuộc trách nhiệm của nhà thầu phụ đã kê khai trong hợp đồng" thuộc hành vi bị cấm trong đấu thầu.