Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ ngắn gọn

Top những bài làm văn cảm nhận về nhân vật bà Cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt của tác giả Kim Lan hay nhất mà chúng tôi chọn lọc. Mời các bạn đọc tham khảo và dựa vào đây viết cho mình một bài văn cảm nhận về nhân vật bà Cụ Tứ thật hay. Chúc các bạn luôn luôn học tập tốt và đạt được thành tích cao.

Cảm nhận về bà cụ Tứ – Bài làm 1

Truyện ngắn ” Vợ nhặt” của Kim Lân được sáng tác sau cách mạng tháng Tám nhưng lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945. Đặt trong bối cảnh ra đời của tác phẩm, nhà văn đã làm toát lên tấm long yêu thương, đùm bọc lẫn nhau và khát vọng hạnh phúc của những người người khổ. Vẻ đẹp nhân bản ấy được tác giả xây dựng thành công ở hình tượng nhân vật “bà cụ Tứ” – mẹ anh Tràng – người  “nhặt vợ”.

Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “long khòng”, khẽ mắt “lèm nhèm “,”khuôn mặt bủng beo, u ám “. Những hành động cử chỉ của cụ “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” cũng thể hiện cụ là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói ” cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.

Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ ngắn gọn

Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ hay nhất

Trong tác phẩm, bà cụ Tứ chỉ xuất hiện ở giữa truyện khi anh Tràng đưa vợ về nhà, nhưng nhân vật này vẫn thu hút được sự quan tâm của người đọc bởi những vẻ đẹp tâm hồn, tính cách.

Trong người mẹ già nua, đói khổ ấy có một tình yêu thương dành cho con cái sâu sắc. Cụ thương người con trai của mình “cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình”. Trong kẽ mắt kèm nhàm của cụ rỉ ra hai dòng nước mắt. Cụ đã sớm lo lắng cho cuộc sống tương lai của đứa con mình” không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không”. Bà còn dành tình yêu thương cho người con dâu mới của mình. Bà nhìn thị nghĩ:”Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được”. Đó là tấm lòng người mẹ không khinh rẻ mà tỏ ra thông cảm thấu hiểu hoàn cảnh con dâu, thậm chí bà còn cho đó là may mắn của con trai mình, gia đình mình khi có con dâu mới. Điều đo chứng tỏ bà cụ Tứ rất hiểu mình, hiểu người. Tình yêu thương còn thể hiên qua những lời nói của bà cụ dành cho con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót, đồng thời động viên con bằng triết lý dân gian”ai giàu ba họ ai khó ba đời, hướng con tới tương lai tươi sáng. “… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương  quá…”. Câu nói thể hiện tấm long thương xót cho số phận của những đứa con. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, sáng hôm sau cụ” xăm xắn quét tước nhà cửa”. Hành động giản dị thôi nhưng thể hiện tấm lòng người mẹ tuy nghèo nhưng hết lòng thương yêu con. Và thế là đám cưới không nghi lễ, không đón đưa của đôi vợ chồng trẻ được chan đầy bằng tình yêu thương và tấm long lo lắng của người mẹ nghèo.

Nhân vật bà cụ Tứ bị đặt trong hoàn cảnh éo le, qua đó ta thấy được tinh thần lạc quan của người mẹ già yếu, tuy sắp đến độ gần đất xa trời nhưng luôn hướng về tương lai thể hiện qua những hành động và lời nói. Cụ tin vào triết lý dân gian: ai giàu ba họ ai khó ba đời- lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Cụ đồng tình khi thấy Tràng thắp đèn mặc dù cụ biết lúc đó dầu rất đắt, dầu là thứ xa xỉ. Nếu để ý ta sẽ thấy chính bà lão “gần đất xa trời”này lại là người nói về tương lai nhiều nhất” cụ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau. Đó không đơn thuần chỉ là niềm lạc quan của người lao động mà còn là ước mơ về cuộc sống có phần tươi sáng hơn cho các con. Bà cụ trông cũng” tươi tỉnh khác hẳn ngày thường”. Chính tâm  trạng vui tươi phấn khởi của người mẹ già đã làm sáng lên cái không gian u ám và góp phần vào ngày vui trọng đại của cuộc đời người con trai. Sáng hôm sau cụ xăm xắn quét dọn nhà cửa, đó là những công việc sinh hoạt thường ngày nhưng đặt trong hoàn cảnh này, hành động quét dọn làm nhà cửa trông sạch sẽ, tinh tươm hơn giống như cụ đang muốn tự tay quét đi những tăm tối của ngày cũ và đón chờ những điều tươi sáng hơn. Và hình ảnh người mẹ già, cười đon đả: “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”, cứ quẩn quanh, ám ảnh tâm chí người đọc. Cái lạc quan không  những không bị mất đi mà lại càng trở nên  mãnh liệt hơn trong mưa nắng cuộc đời. Trong buổi sáng đầu tiên đón tiếp nang dâu mới, nồi cháo cám ” chát xít, nghẹn bứ trong miệng” mà ngon ngọt trong  long, ngọt bởi tâm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm bằng thái độ lạc quan và sự tươi tỉnh động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đã không làm niềm vui nhỏ của những con người nghèo khổ cất cánh lên được.

Bằng tài năng và tấm lòng đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng lên “hình ảnh chân thật và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong trận đói khủng khiếp năm 1945”. Nhân vật bà cụ Tứ được khắc họa chủ yếu qua sự vận động trong  nội tâm nhân vật. Ngoài ra, qua những lời nói, cử chủ, hành động của nhân vật ta cũng có thể cảm nhận được tấm lòng yêu thương con sâu sắc. Ở bà cụ Tứ thấp thoáng hình ảnh của nhân vật lão Hạc, của mẹ Dần, vợ chồng Dần ( Nam Cao) những người nông dân nghèo nhưng chỉ sống vì con, hết lòng yêu thương con. Dẫu chỉ là một nhân vật phụ nhưng bằng tài năng, và tình cảm thiết tha trừu mến đối với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa được chân dung nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa cảm động, day dứt với người đọc. Chính những hành động, lời nói của cụ, nụ cười trên khuôn mặt bủng beo u ám đã làm sáng bừng thiên truyện sau cái tối tăm, cái bế tắc của đói nghèo. Ý nghĩa nhân bản mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù có đặt vào hoàn cảnh khốn cùng, cận kề cái chết nhưng vẫn không mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã khám phá và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.

Cảm nhận về bà cụ Tứ – Bài làm 2

Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân sáng tác những năm sau khi cách mạng tháng Tám nước ta diễn ra thành công. Nhưng tác giả Kim Lân muốn mượn bối cảnh nạn đói năm 1945 để làm nổi bật lên tấm lòng lương thiện của những con người lao động, khốn khổ lúc bấy giờ. Đồng thời qua tác phẩm Vợ nhặt ông muốn tố cáo tội ác dã man của chế độ phong kiến thực dân phát xít, đã bóc lột người nông dân lao động nước ta tới tận xương tủy, khiến cho con người sống không bằng chết.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm

Chính vẻ đẹp nhân văn của tác phẩm được tác giả Kim Lân xây dựng vô cùng thành công thông qua nhân vật bà cụ Tứ mẹ anh cu Tràng.

Nhân vật bà cụ Tứ là một người mẹ nông dân lam lũ, kham khổ, hai con mắt đã “lèm nhèm”, cái lưng còn xuống càng ngày càng gần đất hơn, khuôn mặt bà với những nếp nhăn nheo xô lại với nhau, hai con mắt nhấp nháy, bước đi lập cập…Thể hiện một bà cụ đã ngoài 60 tuổi nhưng già hơn so với tuổi rất nhiều bởi bà kham khổ, làm lụm, một mình vò võ nuôi con nhiều năm. Nhưng nay tuổi già sức khỏe khém hơn con trai cũng đã trưởng thành nên bà cũng bớt phải làm những công việc quá nặng nhọc.

Bà cụ Tứ được tác giả đặt trong hoàn cảnh sống vô cùng nghèo khó, đói khổ, cuộc đời bà cơ cực từ khi còn trẻ, những nỗi đau cứ kéo dài đằng đẵng nối tiếp nhau.

Trong tác phẩm “Vợ nhặt” bà cụ Tứ được nhà văn Kim Lân để cho xuất hiện khi mà anh cu Tràng nhặt được vợ, rồi dẫn vợ mình về nhà cho mẹ. Bà cụ Tứ xuất hiện trong bóng chiều chạng vạng sâm sẩm tối, bà đi giữa bóng tối, hai bên những ngôi nhà lụp xụp không một ánh đèn nào, tiếng quạ kêu, tiếng người khóc, mùi xác người chết thối chưa kịp chôn cất…tất cả hiện lên thật thê lương, ai oán.

Trong khi bà đi từ ngoài nhìn vào nhà, thấy có một người phụ nữ lạ đang ngồi trong nhà. Bà chợt chột dạ như lại nghĩ mình già rồi nên nhìn gà hóa cuốc cũng nên. Nhưng khi bà bước vào nhà nhìn thật rõ lại thấy người phụ nữ đó “chào mình bằng u”, thì bà không còn nghi ngờ gì nữa, đúng là vợ anh cu Tràng thật rồi.

Trong lòng người mẹ già nua, kham khổ đó tình yêu thương dành cho con trai của mình vô cùng mãnh liệt sâu sắc, bà thương cho con trai, rồi chợt tủi cho phận mình. Người ta lấy vợ trong lúc ăn nên làm ra, còn mình thì…không biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua cái đận này không? Nhưng rồi bà lại chợt nghĩ “có gặp hoàn cảnh khốn khó như lúc này thì người ta mới lấy tới con mình, mà con mình mới có vợ”.

Tấm lòng của bà cụ Tứ là tấm lòng bao dung đồng cảm với những số phận hoàn cảnh khó khăn, bà hiểu cho nỗi khổ của người con gái sẽ làm con dâu mình, không coi thường sự dễ dãi của cô ấy, không tìm hiểu xuất xứ, lý lịch, mà chấp nhận cô ấy luôn như một sự may mắn với con trai của bà. Bà cụ Tứ là người tuy đã cao tuổi già cả nhưng trí tuệ và suy nghĩ vẫn còn vô cùng minh tuệ, sâu sắc. Bà biết mình, biết người, biết cảm thông với người khác.

Tình yêu của bà cụ Tứ còn thể hiện qua những lời động viên bà dành cho con trai và con dâu “Giá mà có thì nên làm dăm ba mâm mời hàng xóm nhưng gặp lúc khốn khó này chắc người ta cũng chẳng trách mình” Rồi bà lại nói “Chúng bay liệu bảo ban nhau làm ăn, may ra trời thương cho khấm khá…Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời’. Bà luôn tìm cách động viên con trai và con dâu của mình có lối suy nghĩ tích cực, chịu thương chịu khó cần cù lao động để mọi việc trở nên tốt đẹp hơn. Bà luôn hy vọng vào một tương lai tươi sáng.

Bà cũng vô cùng lo lắng cho số phận của các con mình, bởi bà biết trong bối cảnh đói kém, người chết như ngả rạ ngày nào người dân đi làm đồng chẳng gặp vài xác người mới chết nằm cạnh những người sống không nhà không cửa. Chính vì vậy bà lo lắng cũng là điều dễ hiểu. Nhưng các con thương yêu nhau quyết định tới với nhau bà cũng mừng cho chúng nó.

Rồi bà nhanh nhẹn quét tước lại nhà cửa, dọn dẹp lại mảnh vườn cho nó khang trang hơn. Sau đêm tân hôn, buổi sáng hôm sau khung cảnh nhà bà cụ Tứ có nhiều sự thay đổi, ai cũng có vẻ phởn phơ hơn bình thường, nhà cửa cũng gọn gàng sạch sẽ hơn dù chẳng có gì mới mẻ cả.

Bữa ăn đầu tiên sau đêm tân hôn, bà cụ Tứ bê nhà một nồi cháo cám, hình ảnh người mẹ già với cái nồi lớn cười đon đả “Chè khoán đây, ngon đáo để” đó chính là nồi cháo cám, nhưng bà không muốn các con phải suy nghĩ nhiều nên nói lảng, nói tránh đi. Bà còn thêm “Xóm ta khối nhà còn không có mà ăn” thể hiện niềm tin vào cuộc sống của người mẹ già.

Chính cái tinh thần lạc quan của người mẹ già đó đã làm cho các con của bà cũng trở nên mạnh mẽ hơn trong cuộc sống nhiều khó khăn thử thách này. Trong bữa cơm đầu tiên đó, miếng cháo cám chứ chát xít, tắc nghẹn cổ họng nhưng trái tim của mỗi người đều lấp lánh những niềm vui. Ba con người bên nồi cháo cám, đĩa hoa chuối thái vội chấm với muối trắng, họ nói với nhau về Việt Minh phá kho thóc của Nhật chia cho dân nghèo, rồi nhiều nơi người dân không phải nộp thuế. Họ mơ ước về một cuộc sống mới.

Bằng tấm lòng nhân văn sâu sắc thể hiện sự đồng cảm của mình với những số phận của người nông dân lao động nghèo khổ. Nhà văn Kim Lân đã khắc họa vô cùng thành công nhân vật bà cụ Tứ một người mẹ nông dân lam lũ, cùng cực nhưng có tấm lòng nhân hậu thương con vô bờ bến, biết đồng cảm với người khác trong hoàn cảnh khó khăn.

Thông qua nhân vật bà cụ Tứ tác giả muốn thể hiện rằng con người dù sống trong hoàn cảnh nào thì cũng cần phải có tinh thần kiên cường, nhân ái, có sự đồng cảm với người khác thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn.

Cảm nhận về bà cụ Tứ – Bài làm 3

Trong truyện” Vợ nhặt” của nhà văn” Kim Lân” tôi hết sức ấn tượng với nhân vật bà cụ Tứ mặc dù trong truyện bà là tuyến nhân vật phụ nhưng bà lại để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Trong truyện hiện lên nỗi khổ của người nông dân khi bị rơi vào cảnh khốn khổ vào những nạn đói năm 1945. Tác giả xây dựng thành công nhân vật bà cụ Tứ nỗi vất vả của người mẹ vì lo cho con, gia đình nên đã hi sinh tất cả. Ta thấy được tấm lòng yêu thương của bà cụ Tứ, và ước mơ hướng tới khát vọng được có một cuộc sống hạnh phúc, ấm no.

Bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ tuổi đã già yếu với cái lưng “long khòng”, khẽ mắt “lèm nhèm “,”khuôn mặt bủng beo, u ám “. Vì hoàn cảnh khó khăn bà lại là dân ngụ cư thường bị kinh bỉ, rẻ rúm và phải sống tách biệt với làng. Tuổi đã cao như vậy bà vẫn phải gánh vác gia đình vì chỉ còn mỗi bà và đứa con trai là anh cu Chàng đã lớn tuổi có ngoại hình xấu xí đã đành lại ngờ nghệch, dở hơi.

Hành động cử chỉ của cụ “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ” cũng thể hiện rõ cho ta thấy độ tuổi của cụ đã già yếu, không còn khỏe mạnh nữa mà đây là cái tuổi dễ ốm đau, bệnh tật. Số phận của người phụ nữ ấy còn phải chịu hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà cụ nói ” cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng” phải âm thầm chịu đựng.

Trong lòng người mẹ luôn chứa chan tình yêu thương con vô bờ bến. Cụ thương đứa con trai khờ khạo của mình không biết lúc mình mất đi thì liệu nó có lo liệu được cuộc sống cứ nghĩ đến trong lòng cụ lại thấy xót xa “cảm thấy ai oán xót thương cho số phận đứa con mình”.

Trong kẽ mắt kèm nhèm đã mỏi mệt của cụ khi nghĩ về tương lai sau này của đứa con trai sẽ đi về đâu không kìm lòng đã rỉ ra hai dòng nước mắt chua xót cho số phận khốn cùng này. Khi anh cu Tràng dẫn vợ về ra mắt mẹ. Mới đầu, cụ rất ngạc nhiên, bất ngờ hay khi con mình lại có người chịu làm vợ, nhưng rồi dần dần cụ cũng đã hiểu ra cơ sự và cảm thấy xót xa. Không biết nên”Mừng- Lo”, “Vui-Buồn” trước tình cảnh éo le này.

Xem thêm:  Phân tích truyện ngắn rừng xà nu

Cụ lo lắng cho tương lai của đứa con mình” không biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua cơn đói này không”. Không phải vì lý do là bà có được đứa con dâu nhặt mà bà kinh bỉ, hắt hủi mà bà còn dành tình yêu thương, quan tâm con dâu như chính con đẻ. Bà nghĩ thị lấy con bà vì muốn có một chỗ dựa sống qua cơn đói bà nghĩ “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này người ta mới lấy con mình, con mình mới có vợ được”. Đó là tấm lòng hiền dịu, bao dung của người mẹ, cưu mang, giúp đỡ người khác đang gặp khó khăn, không kinh bỉ, xa lánh. Mà bà còn là cả tình yêu thương bao la của mẹ dành cho đứa con dâu.

 Tình yêu thương không chỉ thể hiện cách suy nghĩ hay tâm tư, nội tâm mà còn bộc lộ rõ nhất qua cử chỉ, hay những lời nói của bà cụ dành cho con “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Bà muốn động viên con là hãy chăm chỉ làm ăn thật tốt biết đâu may mắn được ông trời thương ban cho cuộc sống ấm no thoát khỏi cảnh tù túng, đói khổ này.

Bà cụ Tứ nói với con dâu bằng lời nói chân thành động viên con dâu những kinh nghiệm quý báu của một người phụ nữ đã từng trải vừa lo lắng, vừa thương xót, bà khuyên nhủ bằng những câu nói dân gian xưa “ai giàu ba họ ai khó ba đời” bà hướng cho con thấy tia sáng cho tương lai sau này”, bà nghĩ đến cảnh đói khổ bà nghĩ “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương  quá…”. Câu nói thể hiện lo lắng xót xa trước cảnh đời khi nhìn thấy hoàn cảnh đói khổ éo lo hiện tại.

Bà thấy tủi thân cho đứa con dâu người ta được cưới hỏi đàng hoàng mà mình lại chỉ là người con dâu bất hạnh nhặt được. Và để ngày vui của các con thêm trọn vẹn, hạnh phúc thì tới sáng hôm sau cụ” xăm xắn quét tước nhà cửa”. Có người con dâu về bà rất mừng như có một tia sáng mới xua tan đi những nỗi buồn u ám, thay vào đó là hạnh phúc thay đổi gia đình. Chi tiết đặc biệt nhất trong câu chuyện là nồi “Cháo cám” nghẹn ứ, chát đắng trong buổi đầu tiên đón con dâu.

Nhưng nồi cháo bỗng dưng lại ngon ngọt trong  lòng, bởi lẽ vị ngọt đó chính là cả tấm lòng người mẹ nghèo đang cố xua đi cái không khí ảm đạm, u ám tẻ nhạt trong bữa cơm mà thể hiện rõ thái độ lạc quan, yêu đời và vui vẻ động viên con cố gắng vượt qua hoàn cảnh. Nhưng sự thật là vị đắng ngắt của cháo cám và tiếng thúc thuế từ xa vọng lại đó là nỗi lo lắng của những người nghèo đang phải đối mặt.

Chi tiết mà tôi ấn tượng nhất ở bà cụ Tứ là khi nhìn vào lá cờ đỏ cách mạng. Bà tin là có một ngày Đảng ta sẽ tìm được cách đánh đuổi bọn giặc ngoại xâm, chọc thùng kho thóc Nhật đòi lại được công bằng, cuộc sống hạnh phúc, ấm lo cho nhân dân. Bà tin ngày ấy không con từ trong căn nhà tối xẩm, u ám thì lại hiện lên một tia sáng vụt lên trong suy nghĩ đó là tia sáng cho một tương lai hạnh phúc, ấm nó mà bà mong chờ.

Cả tác phẩm cho ta ý nghĩa nhân văn mà từ đó diễn tả nội tâm sâu sắc của nhân vật. Như vậy, cho nên dù đặt con người dù có đặt vào hoàn cảnh khó khăn, khốn khổ hay là cận kề với cái chết nhưng không vì thế mà đánh mất đi những giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn: “Lòng yêu thương con người và thái độ lạc quan hi vọng vào tương lai tươi sáng dù cho chỉ có một tia hi vọng mỏng manh. Kim Lân đã khắc họa thành công về nhân cách của con người thông qua nhân vật bà cụ Tứ.

Cảm nhận về bà cụ Tứ – Bài làm 4

Tác giả Kim Lân viết “Vợ nhặt” trong bối cảnh những năm đất nước ta đang có nạn đói đang hoành hành,, nạn đói lịch sử này đã làm chết hai triệu đồng bào ở nước ta, làm cho người dân của chúng ta rơi vào thời kỳ lao đao khốn đốn.

Nhưng chính trong thời kỳ đói khổ này mà tấm lòng con người lại trở nên ấm áp, giàu cảm xúc, giàu tình người hơn bao giờ hết. Trong hoàn cảnh khó khăn đói kém đó, nhưng người ta luôn hướng tới sự sống chứ không tìm tới cái chết. Đó chính là điều sâu sắc ý nghĩa mà tác giả Kim Lân muốn gửi gắm vào tác phẩm của mình.

Trong đó, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ của anh cu Tràng là người phụ nữ có tấm lòng cực kỳ nhân hậu, nhân văn, thấu tình đạt lý. Một bà mẹ chồng xưa nay hiếm. Bà cụ Tứ là một nhân vật có tấm lòng nhân hậu. Một người mẹ nghèo khổ tuổi đã cao mắt lèm nhèm, lưng đã còng, khuôn mặt thì luôn bủng beo u ám.

Người phụ nữ nghèo khổ này đã trải qua nhiều biến cố trong cuộc sống. Bà góa chồng từ khi còn trẻ, chỉ có một người con trai là anh cu Tràng. Trong tác phẩm “Vợ nhặt” bà cụ Tứ xuất hiện ở truyện khi anh cu Trang nhặt được vợ và dẫn vợ của mình về nhà cùng chung sống.

Hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện già nua, đói khổ, hai con mắt thì đã nhìn gà hóa cuốc, nhưng tình cảm mà bà dành cho con dâu và con trai mình thì vô cùng sâu sắc. Lúc đầu khi nhìn thấy người phụ nữ lạ ở trong nhà bà còn tưởng mình nhìn nhầm, nhưng sau đó khi bước lại gần lại nghe người phụ nữ kia chào mình bằng u, rồi nghe anh cu Tràng giới thiệu đây là nhà con. Thì bà cụ Tứ biết rằng mình không thể nhầm được nữa

Nhưng bà chợt xót xa nhói lên trong lòng mình những cảm xúc thương cảm, bởi người ta lấy vợ trong lúc ăn nên làm ra, còn mình thì… không biết chúng có nuôi nổi nhau sống qua cái đận này không? Đó chính là tâm trạng của người mẹ già thương con, lo lắng cho số phận của con mình trong lúc hoàn cảnh đói kém này, gia đình có thêm miệng ăn là thêm gánh nặng. Nhưng rồi bà lại nghĩ “Có gặp lúc khó khăn này thì người ta mới lấy tới con mình. Con mình mới có vợ”

Một người phụ nữ có cái nhìn lạc quan thấu đáo, bà cảm thương cho số phận cô con dâu của mình, thương cho hoàn cảnh lang thang cô đơn của cô. Cảm thấy cô gái tội nghiệp kia cần một mái nhà, một gia đình để cùng nhau phấn đấu cố gắng chống lại những khó khăn của cuộc sống.

Tấm lòng của người mẹ, một người phụ nữ từng trải bà hiểu cho hoàn cảnh sa cơ lỡ bước của con dâu mình, thậm chí bà còn nghĩ có thể đây là may mắn, bởi con trai bà vừa nghèo khổ, vừa có ngoại hình thô kệch lại ít học, gia cảnh mẹ góa con côi, nếu vào thời kỳ bình thường sẽ khó mà lấy được vợ. Có gặp lúc khốn khó này thì người ta mới lấy tới con mình, cho thấy bà có cái nhìn vô cùng tích cực, lạc quan

Sau đêm tân hôn anh cu Tràng tỉnh dậy thấy nhà cửa gọn gàng, ngoài vườn những đám cỏ cũng đã được phát quang đãng gọn gàng. Rồi bà cụ Tứ bưng nồi chè khoán, ra miệng ríu rít “Chè khoán đây ngon đáo để”. Bà bưng ra một nồi cháo cám, nhưng không muốn con trai và con dâu mình phải suy nghĩ nhiều về cái đói khổ nghèo nàn mà mất đi niềm tin vào tương lai cuộc sống, nên bà đã động viên các con “Xóm ta khối nhà không có mà ăn”. Rồi trong bữa ăn bà nói tới việc mua gà về nuôi, nhờ may trời cho khấm khá “Không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”

Xem thêm:  Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi: Ôi những cánh đồng quê chảy máu. Dây thép gai đâm nát trời chiều. Những đêm dài hành quân nung nấu. Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Bà tâm sự với con dâu mình bằng những lời nói từ gan ruột, giá như có tiền, thì làm dăm mâm mời hàng xóm, nhưng gặp lúc đói khổ này chẳng ai trách mình. Bà hiểu được rằng người con gái khi lấy chồng cần lắm danh dự thể diện, cần nhận những lời chúc mừng…Nhưng gặp hoàn cảnh đói kém, khốn khổ nên lực bất tòng tâm, bà thương con trai và con dâu mình thắt ruột nhưng không thể làm được gì.

Bà thương các con, nên dù tuổi già nhưng vẫn quét nhà, xăm xăm làm những công việc thu vén dọn dẹp, thể hiện tấm lòng yêu thương con trai và con dâu của mình. Những hành động giản dị đó nhưng thể hiện tấm lòng của người mẹ nghèo nhưng hết lòng vun vén cho tương lai của các con mình.

Bằng tài năng và lòng nhân văn đồng cảm sâu sắc của mình nhà văn Kim Lan đã dựng lên hình ảnh người mẹ già vô cùng xúc động. Một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, ít học nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, cách cư xử thấu tình đạt lý, hiểu trước biết sau.

Bà cụ Tứ là người có nội tâm sâu sắc, ngoài ra những hành động cử chỉ của bà cũng cho thấy bà là người có tấm lòng nhân hậu, có tình cảm thương yêu con người. Thông qua nhân vật bà cụ Tứ ta thấy được hình ảnh của những người vợ người mẹ Việt Nam, nhân hậu chịu thương chịu khó, thương chồng thương con, cả cuộc đời hy sinh cho chồng con và gia đình của mình.

Cảm nhận về bà cụ Tứ – Bài làm 5

Có một lí do khiến người đọc “rất mệt” khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Kim Lân… bởi họ viết hay quá, cuốn quá, đời quá và “gắt” quá. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật, cùng nhân vật đi qua những niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về người đàn bà tuy sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực nhưng có tình yêu thương con vô bờ bến.

Kim Lân Kim Lân (sinh 1 tháng 8 năm 1920 – mất 20 tháng 7 năm 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Văn Kim Lân mang đậm dấu ấn cá nhân. Kim Lân đặc biệt thành công trong việc tái hiện không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó. Các tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân gồm có “Nên vợ nên chồng” (1955), “Làng” (1948), “Vợ nhặt” (in trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” năm 1962).

Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nói về tác phẩm, Kim Lân viết: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.” Nhân vật bà cụ Tứ chính là điển hình cho “những con người ấy”.

Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo hèn, tuy lớn tuổi vẫn phải nhọc nhằn suy tính mưu sinh. Ta nhận biết được điều này thông qua một vài chi tiết rất nhỏ: “Từ ngoài rặng tre, bà lọng khọng đi vào. Tính bà vẫn thế, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng…”. Từ “lọng khọng” khiến người đọc có cảm giác như một bà lão dáng dấp nhỏ bé, không còn nhanh nhẹn, bước từng bước chậm chạp, nhọc nhằn đang bước ra từ bóng tối mịt mùng. Giữa không gian xóm ngụ cư tồi tàn, con người “tối sầm” vì đói khát, không khí “vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người chết đói” cộng hưởng với cái “lầm bầm tính toán” khiến ta rợn người. Có thể tính toán gì nữa đây trong cái cảnh “không còn gì để mất” này? Do đó, bà cụ Tứ bước tới mang theo cả “bầu trời” thê lương đến não lòng.

Tiếp theo, Kim Lân còn xây dựng lên nhân vật bà cụ Tứ giàu tình thương, đức hi sinh, luôn mong muốn có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn. Bà cụ Tứ là người mẹ luôn biết thấu hiểu cho đưa con trai – cu Tràng, hết lòng mong cho con được hạnh phúc. Điều này thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ trong suốt câu chuyện. Lúc đầu, thấy anh Tràng dắt về một người đàn bà lại, cụ Tứ “đứng sững lại”, “ngạc nhiên”. Rồi càng ngạc nhiên hơn, khi người đàn bà kia “chào mình bằng u”. Sống quá nửa đời người, chỉ giây lát bà cụ Tứ như dần hiểu ra mọi chuyện, mắt bà nhoèn đi. Một câu hỏi lớn xuất hiện trong đầu bà cụ Tứ: giữa nạn đói khủng khiếp này, ăn còn chẳng đủ làm sao mà nuổi nổi nhau đây? Bà hiểu cả, hiểu khao khát có một mái ấm gia đình của cu Tràng, nhưng hiện thực phũ phàng không cho Tràng có cơ hội có một đám cưới đàng hoàng như bao người. Của hồi môn là vài câu hò với mấy bát bánh đúc, cô vợ là người đàn bà “nhặt” về, thế nhưng, sau những giây phút ngập ngừng suy tính, bà cụ Tứ cũng “mừng lòng” đón nhận. Đó chẳng phải minh chứng cho khao khát hạnh phúc gia đình của bà cụ Tứ đó sao? Bà cụ Tứ không chỉ thương con, mà còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng cảnh. Bà đón nhận một người đàn bà dưng về dù “không biết có nuôi nổi nhau không”.

Cuối cùng, bà cụ Tứ còn là một người luôn sống lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Cảnh buổi sáng hôm sau rực nắng vàng xua tan mọi âm u, chết chóc. Cả gia đình cùng nhau sửa sang ngôi nhà, rọn vườn, quét sân… Trong bữa ăn ngày đói, mâm cháo cám “đắng chát” mừng con dâu mới phơi bày hiện thực “cái đói ngay trước mắt”. Ba con người, ba mảnh đời. Một kẻ ngờ nghệch. Một người rẻ rúng được “nhặt” về. Một bà lão “gần đất xa trời”. Thế nhưng, họ say sưa nói chuyện tương lai. Bà cụ Tứ hào hứng kể những dự tính sắp tới

Như vậy, thông qua nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân đã nói lên khát vọng, ước mơ cao đẹp từ đó bày tỏ lòng trân trọng những phẩm chất tốt đẹp ở con người. Đó cũng chính là biểu hiện của tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Một lần nữa, Nam Cao lại thành công trong xây dựng diễn biến tâm lí nhân vật sinh động, chân thực, nói lên phong cách văn chương độc đáo của riêng mình.

Tôi chợt nhớ tới câu nói trong tác phẩm “Cố hương” của Lỗ Tấn: “Trên thế gian này làm gì có đường mòn. Người ta đi mãi thì thành đường thôi…” Cũng đi trên “con đường mòn” phê phán hiện thực, viết về thể tài người nông dân như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Cống Hoan… nhưng Kim Lân lại có bước đi của riêng mình.

Cảm ơn các bạn các bạn vừa đọc xong top những bài làm văn cảm nhận về nhân vật Cụ Tứ trong tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân hay nhất. Chúc các bạn có một bài làm văn viết về cảm nhận của mình về nhân vật cụ Tứ thật hay và đạt điểm cao nhé.