Bài giảng về rừng ngập mặn tại thanh hóa care năm 2024
Vào tháng 9 năm 2005, cơn bão Damrey, cơn bão mạnh nhất đã tấn công Việt Nam trong nhiều năm, tràn qua bờ biển phía đông của tỉnh Thanh Hoá. Các cuộc khảo sát sau cơn bão cho thấy, nơi rừng ngập mặn tồn tại đê không bị phá vỡ do triều cường và triều cường. Đoạn đê này được bao phủ bằng đất trong khi các khu vực đê ngay cả khi xây dựng bê tông nơi không có rừng ngập mặn bị phá vỡ. Đã có hơn 3 km đê bị hỏng ở Daloc vì không có rừng ngập mặn ở đây để ngăn chặn các sóng mạnh, cho phép nước biển tràn nhà gây hại, ruộng lúa và các loại cây trồng khác. Dân số của Đa Lộc bị thiệt hại nghiêm trọng về tổn thất mạng sống, sửa chữa thiệt hại và nhiễm mặn đất, tiếp tục làm giảm sản lượng cây trồng và năng suất cao thậm chí 3 năm sau đó. Để giảm thiểu thiên tai một cách ổn định, không có cách nào khác cho xã Đa Lộc hơn là củng cố đê biển bằng cách trồng rừng ngập mặn ra biển để giảm và ngăn chặn thiệt hại do bão và sóng dâng cao. Sau khi hỗ trợ cứu trợ trong năm 2005- 2006 cung cấp cho mọi người các vật liệu thiết yếu như thực phẩm, bộ dụng cụ gia đình. Trong năm 2007, CARE đã thành lập Dự án Quản lý và Trồng rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng. Đây là một dự án tiếp cận mới dựa vào cộng đồng địa phương để trồng và quản lý rừng ngập mặn Kết quả trồng rừng ngập mặn trong 3 năm (2007 – 2009) Trong 3 năm qua, dự án đã trồng 250 ha rừng ngập mặn (80% -85%) với các loài Candelia (Cây Trang) và trồng xen 10 ha cây Sonneratia (Cây Bần chua) và thành lập vườn ươm với 15.000 cây con các loài Sonneratia. Đây là thành tựu tuyệt vời đầu tiên của Dự án bởi vì rất khó trồng rừng ngập mặn ra biển do sóng lớn, rất nhiều chuồng và rác bẩn bám vào những cây nhỏ, làm cho cây chết nhanh. Vấn đề này đã được cảnh báo bởi các chuyên gia tư vấn kỹ thuật và người dân địa phương tin rằng khi trồng dọc theo đê biển ra biển, sẽ là một thành công lớn nếu tỷ lệ sống của cây của dự án Rừng ngập mặn chỉ là 10% sau một năm. Dựa trên kinh nghiệm quá khứ của các dự án khác như Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản, Chương trình 661 – Chương trình của Chính phủ Việt Nam trồng 200 ha rừng ngập mặn vào năm 2005 và 2006, tất cả các cây đã chết sau một năm vì bị mất mát nghiêm trọng. từ sóng lớn và bão. .Đây là vấn đề khó khăn nhất mà Dự án Rừng ngập mặn phải đối mặt và phải tìm ra giải pháp. Ban quản lý dự án Rừng ngập mặn cộng đồng (CMB) và Nhóm dự án CARE đã hợp tác chặt chẽ với người dân địa phương để giải quyết vấn đề này và đã đạt được những bước đầu tiên thành công. Một số yếu tố thành công chính từ kinh nghiệm trồng rừng và chăm sócrừng ngập mặn 1.Tổ chức các cuộc họp có sự tham gia để thu thập ý kiến / ý kiến của người dân địa phương về việc lập kế hoạch trồng và bảo vệ rừng ngập mặn Dự án chú trọng nâng cao nhận thức của người dân địa phương và vai trò của họ trong dự án Rừng ngập mặn, giúp họ hiểu rằng “Dự án quản lý và trồng rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng là dự án của người dân địa phương ở xã Daloc sẽ được thực hiện, giám sát, duy trì, bảo vệ và tự quản lý. ”Mọi hoạt động của dự án đều mở cho người dân địa phương biết, thảo luận, đưa ra ý kiến / nhận xét và đưa ra quyết định. Ví dụ, người dân tư vấn cho thời gian tốt nhất để thu thập hạt giống để tránh bão vào tháng Tư xảy ra hàng năm ở xã Đa Lộc; Huy động sự tham gia của người dân và quyền sở hữu bao gồm những người dân nghèo bị bão Damrey là yếu tố then chốt cho sự thành công mà không có dự án nào sẽ không nhận ra những kết quả tích cực như vậy.2 Tổ chức các khóa đào tạo kỹ thuật cho các thành viên của các nhóm trồng.Dự án đã tiến hành tập huấn kỹ thuật về kỹ năng trồng cho các thành viên được lựa chọn của các nhóm trồng. Việc trồng rừng ngập mặn ra biển xa các cửa sông là một thách thức. Dự án đã mời các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật của tỉnh Thái Bình trồng rừng ngập mặn thành công để cung cấp hướng dẫn kỹ thuật cho 121 thành viên của các nhóm trồng, bao gồm cách thu hái và chọn hạt giống từ rừng ngập mặn hiện có của các loài thích hợp. Là người chủ chốt của Hội Nông dân và Hội Phụ nữ ở 6 làng ven biển, các thành viên này chịu trách nhiệm hướng dẫn cho 700 nông dân trồng cũng như theo dõi kỹ thuật trồng trọt. Do hệ thống đào tạo và giám sát này, tất cả các giống cây ngập mặn và cây giống được trồng một cách chính xác và có cơ hội sống sót tốt.
Điều quan trọng nhất là các cuộc họp có sự tham gia, lập kế hoạch và ra quyết định được thực hiện bởi chính người dân trong các cộng đồng ven biển. 4. Tổ chức các cuộc thi về Bảo vệ môi trường và rừng ngập mặn để nâng cao nhận thức của người dân và thanh niên về bảo vệ môi trường và rừng ngập mặn. Các cuộc thi được tổ chức với nhiều hoạt động khác nhau bao gồm đóng vai, vẽ tranh, phỏng vấn, ca hát và cắm trại. Các cuộc thi không chỉ thu hút người dân ở xã Daloc mà còn thu hút những người khác ở các xã ven biển lân cận. Các cuộc thi được tổ chức trên bãi biển bên cạnh khu vực Rừng ngập mặn để khuyến khích mọi người đặc biệt là giới trẻ thích thú với rừng ngập mặn hơn. Đó là một cách tốt để nâng cao nhận thức của người dân về rừng ngập mặn và bảo vệ môi trường cho sự bền vững lâu dài. Đây là bài học đầu tiên cho trẻ em áp dụng trong thực tế không chỉ bây giờ mà còn cho tương lai. Nó cũng sẽ góp phần thay đổi thái độ / hành vi của người dân về môi trường và bảo vệ rừng ngập mặn. 5. Thiết lập hệ thống quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng (CBMMS) với sự tham gia đầy đủ của các thành viên cộng đồng trong việc hiểu các vấn đề, thiết kế hệ thống và dẫn đầu thực hiện với sự hỗ trợ của dự án là rất cần thiết trong việc đảm bảo quyền sở hữu cộng đồng và quản lý rừng ngập mặn bền vững. Dự án đã tạo điều kiện cho quá trình CBMMS bao gồm: • phối hợp với Ủy ban Nhân dân, Sở NN & PTNT và Sở TNMT • nâng cao nhận thức, huy động sự tham gia, tổ chức cộng đồng, năng lực xây dựng và quyền sở hữu của cộng đồng • phân tích các lỗ hổng, sử dụng đất, lợi thế và lợi ích của rừng ngập mặn, hàng tồn kho, các nghiên cứu khác • hình thành và đào tạo các nhóm trồng và bảo vệ, bầu cử, thành lập và đào tạo các thành viên ban quản lý cộng đồng, nhấn mạnh vào việc học bằng cách làm và từ các dự án tương tự • thỏa thuận đàm phán giữa người sử dụng rừng ngập mặn và với chính quyền địa phương về quyền và trách nhiệm quản lý người dùng, thiết lập hệ thống quản lý rừng ngập mặn dựa vào cộng đồng • giám sát và báo cáo tỷ lệ sống cũng như ha trồng để đo lường chính xác kết quả và tính bền vững. • quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia để hướng dẫn việc sử dụng và bảo vệ tài nguyên rừng ngập mặn theo thời gian (vẫn đang tiếp diễn) • lập kế hoạch cho Ban quản lý cộng đồng quản lý chi phí hoạt động CBMMS cuối cùng đảm bảo quyền sử dụng đất của cộng đồng người nghèo địa phương, quy hoạch sử dụng đất có sự tham gia, chia sẻ lợi ích công bằng và vai trò rõ ràng và trách nhiệm hợp tác giữa cộng đồng, nhà cung cấp dịch vụ và chính quyền địa phương. Giao tiếp bằng lời nói với Sở NN & PTNT ở Thanh Hóa cho rằng mỗi 1 đô la đầu tư vào rừng ngập mặn thành công đem lại lợi nhuận khoảng 186 đô la cho sinh kế cải thiện và giảm chi phí sửa chữa đê. 6.Xây dựng quan hệ và phổ biến thành công Dự án đã có mối quan hệ tốt với các đối tác từ cấp tỉnh đến cấp thôn và nhận được rất nhiều sự hỗ trợ từ họ đối với thủ tục hành chính, các cuộc họp và hội thảo tham gia. Những người tham gia từ chính phủ đã cung cấp ý tưởng / nhận xét và chấp nhận phương pháp tiếp cận dựa vào cộng đồng mới, điều này cũng đã cải thiện mối quan hệ giữa Cộng đồng và các quan chức chính phủ. Ví dụ, Sở NN & PTNT Thanh Hóa và UBND huyện Hậu Lộc đã cử các cán bộ hỗ trợ 3 thôn ven biển về PFLUP và họ có kế hoạch nhân rộng mô hình cho các huyện khác ở tỉnh Thanh Hóa. Cục đê quốc gia Bộ NN & PTNT cũng bị ảnh hưởng để áp dụng mô hình dự án và |