Việt Nam và Lào có bao nhiêu cột mốc?

Hai nước có chung đường biên giới với tổng chiều dài khoảng 2.067km, đi qua 10 tỉnh biên giới của Việt Nam là Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh biên giới của Lào là Phông-sa-lỳ, Luổng-phạ-băng, Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Bô-ly-khăm-xay, Khăm-muộn, Sa-vẳn-nạ-khệt, Sa-la-van, Xê-kông và Ăt-tạ-pư. Điểm khởi đầu của đường biên giới ở vị trí ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Trung Quốc (Điện Biên), kết thúc ở vị trí ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia (Kon Tum). Phía Việt Nam có 153 xã, 36 huyện biên giới, 94 đồn biên phòng.

Vùng biên giới Việt Nam – Lào là một vùng hoàn toàn đồi núi. Ở phía Bắc, vùng này đ­ược tạo thành bởi những đỉnh núi độ cao trung bình 1.500-1.800m. Nhiều sông suối chảy qua những thung lũng cắt ngang tạo ra một quang cảnh chia cắt. Vùng địa lý tiếp theo về phía Nam tạo ra một vùng khó qua lại của dải Trường Sơn, có những núi cao 2.000m. Đoạn cuối của biên giới Việt-Lào thấp dần.

 

Việt Nam và Lào có bao nhiêu cột mốc?

Cột mốc biên giới chung Việt Nam - Lào - Campuchia

 

Hiện, hai nước đã hoàn thành cắm mốc biên giới ở 1.002 điểm, xây dựng 905 cột mốc và hoàn tất việc lập bản đồ biên giới Lào - Việt Nam tỷ lệ 1/50.000, bình quân cứ mỗi 2.6km biên giới hai nước sẽ có một điểm mốc. Việc hoàn tất các hoạt động phân định biên giới nói trên đã tạo tiền đề cho hai bên đạt được những thỏa thuận chung mới, đồng thời có ý nghĩa quan trọng về chính trị, phát triển kinh tế khu vực biên giới chung, hợp tác văn hóa, du lịch giữa nhân dân Lào và Việt Nam.

Những năm qua, khu vực biên giới chung được Đảng, Nhà nước và các địa phương quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển về nhiều mặt, đời sống kinh tế - xã hội ngày càng được nâng lên. Hệ thống chính trị cơ sở từng bước được củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo.

Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử và địa lý, nên khu vực biên giới chung còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ; địa bàn rộng, dân cư phân bố không đồng đều, chủ yếu là đồng bào các dân tộc ít người, trình độ nhận thức về pháp luật và chấp hành pháp luật ở nhiều nơi còn hạn chế.

 

Việt Nam và Lào có bao nhiêu cột mốc?

Cửa khẩu quốc tế Bờ Y

 

Năm 2015, hai nước ký kết hiệp định hợp tác giao thương biên giới. Kể từ đó, hợp tác giữa hai nước đã đạt được các thành tựu tích cực trên nhiều mặt. Việc khuyến khích thương và đầu tư đôi bên được đẩy mạnh, thu hút các doanh nghiệp đầu tư trên nhiều lĩnh vực, góp phần quảng bá sản phẩm, thế mạnh phát triển xuất khẩu và cung cấp hàng hóa, dịch vụ giữa các địa phương hai nước.

Về lĩnh vực phát triển mạng lưới giao thương vùng biên, hiện có tổng cộng 36 chợ biên giới Lào - Việt Nam. Hai bên cũng có 8 cặp cửa khẩu quốc tế, 7 cửa khẩu quốc gia, 18 lối mở biên giới và 8 khu kinh tế đặc thù. Đây là kết quả của tình hữu nghị, đoàn kết và hợp tác trên tinh thần đôi bên cùng có lợi, phản ánh mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Lào - Việt Nam.

Mặt khác, Việt Nam và Lào cũng phối hợp nhanh chóng trong việc bổ sung, tôn tạo các cột mốc biên giới đã tạo điều kiện thuân lợi cho thương mại song phương. Từ đó, đảm bảo tình hình an ninh khu vực biên giới chung giữa hai nước, góp phần củng cố mối quan hệ bền chặt không thể tách rời giữa hai quốc gia.

 

Trọng Huyền

Việt Nam có đường biên giới chung với Lào là đường biên giới trên bộ dài nhất với tổng chiều dài lên đến 2.337,459km, đi qua 10 tỉnh của Việt Nam và 10 tỉnh của Lào.

Thực hiện Hiệp ước hoạch định đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào năm 1977, trong giai đoạn 1978 - 1987 hai nước đã cơ bản hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa với 214 cột mốc tại 199 vị trí. Kết quả này đã được ghi nhận tại Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHDCND Lào, Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định và Nghị định thư về phân giới trên thực địa và cắm mốc toàn bộ đường biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHDCND Lào ký năm 1986 và Nghị định thư bổ sung ký năm 1987. Từ năm 1997 - 2003, hai bên đã hoàn thành việc lập bộ bản đồ đường biên giới quốc gia Việt Nam - Lào tỷ lệ 1/50.000 bằng công nghệ số và giải quyết toàn bộ các khu vực tồn đọng sau phân giới, cắm mốc trước kia.

Tuy vậy, sau gần 20 năm, hệ thống mốc quốc giới của 199 vị trí mốc chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý biên giới, mật độ vị trí mốc quá thưa, chất lượng và độ bền vững của hệ thống mốc không cao, nhiều mốc đã xuống cấp nghiêm trọng. Để khắc phục tình trạng này, năm 2005 lãnh đạo 2 nước đã quyết định triển khai Dự án “Tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào” với 3 nội dung chính: Tăng dày mốc ở những khu vực cần thiết để làm rõ đường biên giới trên thực địa; tôn tạo và xây dựng các mốc hiện có, nhất là các mốc ở cửa khẩu để bảo đảm kiên cố, khang trang, hiện đại; hoàn thiện hồ sơ pháp lý về đường biên giới Việt Nam - Lào.

Việt Nam và Lào có bao nhiêu cột mốc?

Bộ đội Việt - Lào chung niềm vui sau khi hoàn thành một cột mốc 727

Sau 3 năm chuẩn bị và 8 năm xây dựng, bằng ngân sách nhà nước và vốn Việt Nam viện trợ không hoàn lại cho Lào, đến đầu năm ngoái hai nước đã hoàn thành công tác tăng dày và tôn tạo toàn bộ hệ thống mốc quốc giới Việt - Lào, nâng tổng số cột mốc và cọc dấu từ 214 lên 1.002 tại 905 vị trí, tăng gấp 4,5 lần so với trước đây, được ghi nhận chi tiết tại Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới Việt Nam - Lào ký ngày 16.3.2016. Nếu như trước kia, biên giới Việt - Lào cứ 10km mới có 1 cột mốc, thậm chí có nơi 40km mới có 1 cột mốc, thì hiện tại, trung bình cứ 2,6km đường biên giới có 1 cột mốc hoặc cọc dấu, mà hầu hết nằm ở khu vực rừng núi hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn.

Việc hoàn thành công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào không chỉ là thành quả của nỗ lực triển khai, phối hợp giữa Cơ quan biên giới Trung ương, các bộ, ngành, địa phương hữu quan hai nước, mà còn là sự tham gia, đóng góp của nhân dân hai nước. Trong suốt quá trình thực hiện dự án, hai bên đã phối hợp huy động trên 1.000 người tham gia; thực hiện trên 8.000 lần tiếp cận vị trí mốc, làm hàng nghìn kilômét đường để phục vụ việc vận chuyển trên 5.000 tấn nguyên vật liệu; san ủi, giải phóng mặt bằng; đào đắp hàng chục nghìn m3 đất đá phục vụ thi công xây dựng mốc.

Tài sản cho tương lai

Việc hoàn thành thắng lợi công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào vừa là nguyện vọng vừa là lợi ích của nhân dân hai nước, có ý nghĩa thiết thực và to lớn về mọi mặt. Trước hết, giúp chất lượng đường biên giới Việt Nam - Lào được nâng lên cả về pháp lý và trên thực địa. Về mặt pháp lý, đường biên giới được mô tả, thể hiện chi tiết trong Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới và bộ bản đồ đính kèm. Trên thực địa, đường biên giới được thể hiện rõ ràng bằng hệ thống mốc quốc giới chính quy, hiện đại, bảo đảm tính trường tồn và thống nhất trên toàn tuyến. Thành quả này mở ra cơ hội mới cho công cuộc phát triển của mỗi nước, đặc biệt là tạo điều kiện cho các địa phương biên giới hai bên mở rộng hợp tác, phát triển kinh tế, tăng cường giao lưu hữu nghị.

Đặc biệt, việc ký kết Nghị định thư về đường biên giới và mốc quốc giới Việt Nam - Lào và Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới Việt Nam - Lào cùng với Hiệp ước hoạch định biên giới Việt Nam - Lào năm 1977 và các văn kiện biên giới đã ký kết, trở thành bộ hồ sơ pháp lý hoàn chỉnh nhất về đường biên giới hai nước, tạo cơ sở pháp lý và thực tiễn thuận lợi, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý biên giới trong tình hình mới.

Quan trọng nhất, việc hoàn thành khối lượng công việc đồ sộ với vô vàn khó khăn như vậy trong khoảng thời gian khẩn trương, tích cực, một lần nữa là minh chứng thuyết phục cho tình hữu nghị truyền thống, tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Lào. Người Việt Nam có câu: “Yêu nhau rào giậu cho kín”. Quả vậy, để có được những cột mốc vững chãi nơi biên cương là nhờ vào đồng thuận, đoàn kết một lòng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt - Lào, như lời Đội trưởng Đội cắm mốc tỉnh Luangprabang Lào từng chia sẻ: “Cột mốc dựng lên không phải để tạo ra khoảng cách, mà để thắt chặt thêm tình hữu nghị, thủy chung son sắt vốn có của chúng ta”. Đó cũng là “cột mốc” mới trong quan hệ giữa hai nước, không chỉ đặt nền móng cho sự ổn định, bình yên hôm nay mà còn là tài sản cho muôn đời sau.