Ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định. Show
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về kinh tế thị trường. Theo Xmit (Adam Smith), với lí thuyết “bàn tay vô hình” thì nền kinh tế thị trường là nền kinh tế tự điều tiết, vận động theo quy luật của thị trường, hầu như không có sự can thiệp của Nhà nước. Kinh tế thị trường được hiểu dưới góc độ khác là có sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước “bàn tay hữu hình” mà đại diện cho thuyết này là Kâynơ (J. M. Keynes) với “Lí thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ”. Ở Việt Nam, xây dựng và phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra từ Đại hội lần thứ VỊ Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 4986), được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 và các văn kiện của Đảng và Nhà nước. Từ việc phát triển kinh tế trong cơ chế cũ – cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trước đây với hai thành phần kinh tế là kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể (kinh tế tư bản, tư nhân không được thừa nhận), đến nay, trong nền kinh tế Việt nam đã có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển với những hình thức sở hữu khác nhau, trong đó, đáng chú ý là sự hiện diện của thành phần tư bản nước ngoài đang đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Nhà nước Việt Nam khuyến khích và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật, chính sách để các thành phần ` kinh tế cùng có cơ hội phát triển trong một môi š trường cạnh tranh lành mạnh. 2. Ưu điểmTrong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, cho phép họ tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Do đó, nền kinh tế thị trường tạo ra động lực để các doanh nghiệp có thể đổi mới, phát triển mình, bởi khi các doanh nghiệp đó muốn cạnh tranh và đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường thì đòi hỏi họ phải đổi mới về công nghệ, về quy trình sản xuất, quản lý, về các sản phẩm của mình. Ở nền kinh tế thị trường thì con người mong muốn tìm ra phương án cải tiến cho phương thức làm việc, đúc rút cho bản thân nhiều kinh nghiệm. Kinh tế thị trường là nơi để phát hiện, đào tạo, tuyển chọn, sử dụng những người có năng lực tốt, nâng cao quy trình quản lý kinh doanh, cũng là nơi để đào thải những nhà quản lý chưa đạt được hiệu quả cao. Kinh tế thị trường tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất, công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước mình. Trong thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu chí trong xác định điều kiện thương mại giữa hai bên. Các nền kinh tế thị trường có xu hướng cung cấp nhiều việc làm hơn. Một ví dụ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp tại Hoa Kỳ, các doanh nghiệp có ít hơn 20 nhân viên ở Hoa Kỳ chiếm 89,6% lực lượng lao động tại nước này. Với nền kinh tế thị trường, sự tập trung vào đổi mới cho phép các doanh nghiệp nhỏ này tìm ra những thị trường ngách và cung cấp các công việc với mức lương cao ở địa phương. 3. Nhược điểmCơ chế phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trường có thể dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội và quan niệm. Người giàu sẽ sử dụng lợi thế về tài sản để chiếm hữu ngày càng nhiều của cải và quyền lực hơn, trong khi người nghèo sẽ ngày càng nghèo hơn. Cuối cùng sẽ dẫn tới phân chia giai cấp: thiểu số người giàu nắm quyền lực cai trị xã hội, còn đa số là người nghèo có đời sống khó khăn. Chênh lệch giàu nghèo quá mức sẽ dẫn tới nguy cơ bất ổn xã hội khi người nghèo đấu tranh (nhiều khi bằng bạo loạn, lật đổ) để có cuộc sống tốt hơn. Sau một thời gian cạnh tranh “cá lớn nuốt cá bé”, các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các hãng sản xuất lớn mạnh hơn thôn tính. Cuối cùng chỉ còn lại một số ít các nhà sản xuất lớn có tiềm lực mạnh, họ sẽ thâu tóm phần lớn các ngành kinh tế, toàn bộ nền kinh tế sẽ chỉ do một vài nhà tài phiệt nắm quyền thao túng. Kinh tế thị trường sẽ dần biến thành kinh tế độc quyền chi phối. Các doanh nghiệp độc quyền không có đối thủ cạnh tranh nên tùy ý chi phối thị trường, nếu Nhà nước không can thiệp thì họ sẽ cố ý tăng giá, giảm chất lượng sản phẩm để tăng thêm lợi nhuận, gây ra tổn thất cho xã hội và người tiêu dùng. Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất liên tục, sớm muộn sẽ dẫn đến mất cân bằng cung cầu. Trong giai đoạn đầu, các công ty đầu tư phát triển sản xuất khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng với cung. Hiện tượng này tích lũy qua nhiều năm sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa: hàng hoá bị ứ đọng, giá cả sụt giảm, do không bán được hàng để thu hồi chi phí đầu tư nên hàng loạt doanh nghiệp phá sản và dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Cuộc Đại khủng hoảng ở Mỹ năm 1929 chính là kết quả của sự tăng trưởng sản xuất quá mức trong thập kỷ 1920 mà không có sự điều tiết hợp lý của chính phủ. Đó là chưa kể vấn đề về sự sai và sót trong thông tin có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do một số nguyên nhân, giá cả có thể không linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp và lạm phát. Trong một số tình huống, thị trường tự do đi ngược lại lợi ích chung của xã hội. Việc quá đề cao tính thị trường mà không có sự điều tiết của Nhà nước sẽ tạo cơ hội cho sự ích kỷ cá nhân, vì lợi ích cá nhân mà vô cảm cộng đồng, nhất là trong những tình huống ngặt nghèo thì sẽ có những người vì lòng tham lợi nhuận mà sẵn sàng gây tổn hại cho xã hội. Ví dụ: 1 vùng xảy ra dịch bệnh nên bị thiếu thuốc men, nếu Nhà nước không can thiệp (quy định mức giá tối đa, cấm đầu cơ tích trữ) thì các nhà buôn thuốc sẽ lợi dụng tình trạng này để đẩy giá bán thuốc chữa bệnh lên cao, phần lớn dân nghèo sẽ không đủ tiền mua thuốc và sẽ phải chết vì bệnh dịch. Hoặc thị trường sản xuất phim ảnh, ca nhạc, giải trí vì chạy theo lợi nhuận mà sản xuất những tác phẩm mang nội dung phản cảm, đồi trụy, gây tổn hại tới đạo đức xã hội. Để cơ chế thị trường không phát sinh tiêu cực trong cạnh tranh, thì các điều kiện sau đây phải được thỏa mãn: thị trường phải có cạnh tranh hoàn hảo, thông tin minh bạch, không có các ảnh hưởng ngoại lai, không có đầu cơ, không có vi phạm đạo đức kinh doanh, không có lách luật v.v… Tuy nhiên, trong thực tế không có nước nào đáp ứng hoàn hảo các điều kiện này, nên có những trường hợp cơ chế thị trường sẽ không thể phân bổ tối ưu các nguồn lực kinh tế, thậm chí góp phần gây ra khủng hoảng kinh tế hoặc khủng hoảng nhân đạo. Khi đó sẽ có thất bại thị trường. Một ví dụ tiêu biểu là Hoa Kỳ: nền y tế nước này hoàn toàn do tư nhân kiểm soát, bệnh viện và đội ngũ bác sĩ Hoa kỳ có chất lượng hàng đầu thế giới, nhưng viện phí ở Hoa Kỳ cũng đắt đỏ bậc nhất thế giới. Nếu không có bảo hiểm y tế, một bệnh nhân có thể tiêu tốn hàng trăm nghìn USD cho mỗi lần chữa bệnh, kết quả là những người thu nhập thấp sẽ không được hệ thống y tế này cứu chữa. Hoạt động xét nghiệm y tế ở Hoa Kỳ không được kiểm soát trên toàn quốc, nước này cũng không có hệ thống chăm sóc sức khỏe tập trung và xét nghiệm y tế tập trung do chính phủ quản lý. Vì những điểm yếu này, khi Đại dịch COVID-19 xảy ra, Hoa Kỳ đã trở thành nước bị ảnh hưởng nặng nhất thế giới với hàng chục triệu ca nhiễm bệnh, trong đó vài trăm nghìn người đã chết Trong điều kiện Kinh tế chiến tranh thì kinh tế thị trường lại không hiệu quả bằng kinh tế kế hoạch. Khi xảy ra chiến tranh, kinh tế thị trường không cho phép tập trung các nguồn tài nguyên, năng lực sản xuất vào mục tiêu quan trọng nhất là sản xuất quốc phòng (bởi các nhà sản xuất chỉ quan tâm đến lợi nhuận của bản thân, họ sẽ vẫn tập trung sản xuất các mặt hàng khan hiếm như thực phẩm, hàng tiêu dùng chứ không ưu tiên sản xuất trang bị cho quân đội). Một số nhà sản xuất thậm chí sẽ đi ngược lại lợi ích của quốc gia, ví dụ như bán vũ khí, bí mật công nghệ cho nước đối thủ, hoặc nhận hối lộ của nước đối thủ để ngừng sản xuất hàng hóa thiết yếu cho đất nước. Do vậy, nếu xảy ra chiến tranh, Chính phủ các nước thường chuyển đổi sang nền kinh tế kế hoạch để ngăn chặn tình trạng khủng hoảng xã hội, huy động thêm ngân sách để mở rộng quy mô quân đội, đồng thời tập trung tài nguyên cho sản xuất quốc phòng và khôi phục trật tự kinh tế và xã hội. Tiêu biểu như Hoa Kỳ: khi Thế chiến 2 nổ ra, nước này đã đình chỉ một phần nền kinh tế thị trường để chuyển sang Kinh tế chiến tranh. Trong thời kỳ cao điểm của Thế chiến 2, gần 40% GDP Hoa Kỳ là để cung ứng cho chiến tranh. Chính phủ ưu tiên cho các ngành sản xuất phục vụ cho mục đích quân sự, gần như tất cả những yếu tố đầu vào (nguyên liệu, nhân công) được phân bổ cho sản xuất chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được phân phối cố định theo tem phiếu, giá cả và tiền lương được Chính phủ kiểm soát, và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng bị cấm sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được Chính phủ Mỹ điều động vào quân đội. Các nước tham chiến khác như Anh, Đức, Nhật, Ý… cũng thi hành những chính sách tương tự. Trong thực tế hiện nay, để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, không có nước nào có một nền kinh tế thị trường hoàn toàn tự do – tự phát, các chính phủ luôn can thiệp vào thị trường dù ít hay nhiều. Cũng như vậy, không có nước nào có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hoàn toàn (ngay cả kinh tế Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên cũng có 1 phần nhỏ là kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình). Thay vào đó, hầu hết các nước có nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường và yếu tố can thiệp của Nhà nước nhiều hay ít. Ví dụ như tại Hoa Kỳ, tuy có nền kinh tế chủ yếu là thị trường tư nhân nhưng nước này vẫn có Đạo luật Sản xuất Quốc phòng (DPA), cho phép tổng thống Mỹ có quyền yêu cầu doanh nghiệp buộc phải nhận và ưu tiên đơn hàng chế tạo vật liệu, thiết bị được coi là cần thiết với quốc phòng, dù điều đó có thể gây thua lỗ cho doanh nghiệp, Tổng thống Mỹ cũng có quyền quy định những mặt hàng bị cấm tích trữ hoặc đầu cơ tăng giá. BÀI MẪU 2Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, kinh tế hàng hóa đã xuất hiện mầm mống từ xã hội nô lệ, hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển mạnh mẽ trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa và trao đổi hàng hóa chính là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Để hiểu rõ hơn về khái niệm nền kinh tế thị trường là gì? Các đặc trưng và ưu nhược điểm của nền kinh tế này, chúng ta hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây nhé. Khái niệm nền kinh tế thị trường là gì?Lịch sự phát triển nền sản xuất xã hội đã chỉ ra rằng, sản xuất và trao đổi hàng hóa là những tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển kinh tế thị trường (KTTT). Trong quá trình sản xuất và trao đổi, các nhân tố của thị trường như cung, cầu, giá cả,… sẽ tác động theo cách điều tiết và hướng dẫn tới quá trình sản xuất hàng hóa giúp cho việc luân chuyển, phân bố các nguồn lực sản xuất, tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất lưu thông. Thị trường ở đây giữ vai trò là công cụ phân bổ nguồn lực, khi các nguồn lực và sản phẩm làm ra trong nền kinh tế được phân bổ bằng phương thức thị trường thì người ta gọi là nền kinh tế thị trường. Theo cuốn Đại từ điển kinh tế thị trường, thì khái niệm kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế thị trường hình thành bởi trao đổi và lưu thông hàng hóa làm người phân bố tài nguyên chủ yếu, lấy lợi ích vật chất cung – cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế và phương thức vận hành kinh tế. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thị trườngTheo chiều dài lịch sử, nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển đã trải qua ba bước chuyển biến, bao gồm: Bước chuyển biến thứ nhất: Là chuyển đổi từ mô hình kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc lên mô hình kinh tế hàng hóa ở nấc thang thấp nhất là kinh tế hàng hóa giản đơn. Bước chuyển biến thứ hai: Từ mô hình kinh tế hàng hóa đơn giản lên mô hình kinh tế thị trường tự do. Tức là nền kinh tế mà thị trường tự do phát triển, điều tiết kinh tế, mọi vấn đề của nền kinh tế đặt ra đều do thị trường điều chỉnh và quyết định. Bước chuyển biến thứ ba: Từ mô hình kinh tế thị trường tự do lên mô hình kinh tế thị trường hỗn hợp. Nghĩa là nền kinh tế được điều chỉnh bởi cả hai lực lượng chính phủ và thị trường. Ba bước chuyển nói trên chịu sự chi phối bởi tiến trình kinh tế khách quan nhất định, cụ thể như sau: Thứ nhất, trên cơ sở phân công lao động xã hội và trao đổi thông qua quan hệ hàng hóa- tiền tệ và thị trường, phá vỡ kinh tế kết cấu tự nhiên,tự cấp, tự túc, thực hiện tự do cạnh tranh và tự do kinh doanh, tự chủ. Tiến trình này gắn với bước chuyển biến thứ nhất từ kinh tế tự nhiên, tự cấp và tự túc lên kinh tế hàng hóa giản đơn. Thứ hai, lấy sự phân công lao động bằng máy móc làm cơ sở kỹ thuật thông qua công nghiệp hóa để thúc đẩy quá trình chuyển hóa các yếu tố gắn với đầu vào của sản xuất. Đây là quá trình chuyển từ cơ cấu kinh tế nông- công nghiệp sang cơ cấu nông-công nghiệp- dịch vụ. Tiến trình này gắn với bước chuyển biến thứ hai lên kinh tế thị trường tự do. Thứ ba, tiến trình mở cửa thế giới với thế giới bên ngoài, là tiến trình chuyển từ kỹ thuật cơ điện sang kỹ thuật điện tử tin học văn minh hậu công nghiệp, từ kinh tế công-nông nghiệp- dịch vụ sang cơ cấu kinh tế công nghiệp- dịch vụ- nông nghiệp. Thị trường không chỉ trong nước mà còn mở cửa với bên ngoài. Tiến trình này gắn với bước chuyển thứ ba từ kinh tế thị trường tự do lên nền kinh tế thị trường hỗn hợp. Các nhân tố cấu thành nền kinh tế thị trường là gì?Chủ thể tham gia nền kinh tế thị trường
Hệ thống các loại thị trường
Các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường là gì?Về mặt bản chất, nền kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội phát triển ở trình độ cao. Kinh tế thị trường được phân biệt với các kiểu tổ chức kinh tế xã hội khác như kinh tế tự cấp tự túc, kinh tế hàng hóa giản đơn hay kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Sự khác biệt đó được thể hiện ở 06 đặc trưng cơ bản như sau:
Chúng ta thấy rằng, trong nền kinh tế thị trường luôn tồn tại đa dạng các chủ thể kinh tế như: Nhà nước, tập thể, tư nhân, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh liên kết,… Ví dụ: Trong lĩnh vực Ngân hàng, có các:
Sự đa dạng của các chủ thể kinh tế này là tất yếu trong nền kinh tế thị trường, xây dựng nên môi trường cạnh tranh, thúc đẩy kinh tế vận động và phát triển. Đồng thời, sự đa dạng của các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường chính là biểu hiện của nhiều hình thức sở hữu (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu 100% vốn nước ngoài…). Dù đa dạng các chủ thể kinh tế nhưng trong nền kinh tế thị trường thì các chủ thể kinh tế này đều phải bình đẳng trước pháp luật cũng như sự tác động khách quan của quy luật thị trường.
Một cách dễ hiểu nhất, chúng ta có thể hình dung thị trường giống như một bức tranh tổng thể, bao gồm nhiều mảnh ghép kết hợp lại. Các mảnh ghép đó chính là các thị trường bộ phận, ví dụ như thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động, thị trường khoa học công nghệ, thị trường bất động sản… Các loại thị trường này không tồn tại độc lập, mà có mối quan hệ, tác động qua lại với nhau. Các yếu tố thị trường sẽ quyết định việc phân bổ các nguồn lực xã hội thông qua các thị trường bộ phận đó. Ví dụ: Nguồn lực vốn: Trong bối cảnh Toàn cầu đang phải đối mặt với đại dịch Covid 19, nền kinh tế toàn cầu trở nên khó khăn hơn, thị trường lao động khủng hoảng, số lượng người thất nghiệp nhiều, thị trường hàng hóa và dịch vụ đình trệ, sức mua giảm. Tất cả các yếu tố này dẫn đến suy thoái thị trường, chủ đầu tư sẽ có xu hướng dịch chuyển nguồn lực vốn đầu tư sang các khu vực, các nước an toàn hơn. Còn đối với trong nước, các nhà đầu tư có thể chuyển dịch vốn đầu tư từ thị trường tài chính, thị trường bất động sản sang thị trường vàng hoặc thị trường hàng hóa vì lo sợ lạm phát, suy thoái kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật thị trường đóng vai trò quan trọng, chi phối các hoạt động sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng. Điển hình là các quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu. Chính các quy luật này đã giúp cho hình thành mức giá cả thị trường, đồng thời là động lực quan trọng thúc đẩy thị trường phát triển.
Các chủ thể kinh tế tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh suy cho cùng động lực chính vẫn là vì lợi ích kinh tế – xã hội. Chủ thể là doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể phải đặt mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu kinh tế để duy trì và phát triển. Đối với các chủ thể là nhà nước khi tham gia thị trường, có thể vì lợi ích kinh tế song đồng thời cũng phải vừa đảm bảo lợi ích xã hội. Ví dụ: Các dự án công như điện, đường, trường học… Nhà nước cần phải hướng tới mục tiêu kinh tế nhưng đồng thời cũng phải cân đối phù hợp với thu nhập của mọi thành phần nhân dân.
Đặc trưng này nhấn mạnh vai trò quản lý điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường. Hiện nay, hầu hết tất cả các quốc gia đều sử dụng mô hình nền kinh tế thị trường hỗn hợp, tức là nền kinh tế vừa vận động theo cơ chế thị trường. Có nghĩa là nền kinh tế vừa vận động theo cơ chế thị trường vừa có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước, để thúc đẩy nền kinh tế ổn định và giảm nguy cơ khủng hoảng kinh tế, do kinh tế thị trường gây ra.
Như đã đề cập ở các phần trước, chúng ta đều hiểu bản chất của nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Ưu – nhược điểm của nền kinh tế thị trườngƯu điểm của nền kinh tế thị trường là gì?Nền kinh tế thị trường là điều kiện để thúc đẩy sản xuất: Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu cao hơn cung thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên kéo theo lợi nhuận tăng. Từ đó khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung, ai có cơ chế sản xuất hiệu quả sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Điều này cho phép tăng quy mô sản xuất và các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả hơn. Có một lực lượng sản xuất lớn đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng: Nền kinh tế thị trường tạo ra nhiều sản phẩm giúp thỏa mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng về thực phẩm, dịch vụ công cộng, nhà ở,… Tạo động lực để con người sáng tạo: Nền kinh tế thị trường cho phép con người tự do cạnh tranh nên đòi hỏi mọi người phải không ngừng sáng tạo để tồn tại. Chúng ta cần tìm ra những phương thức mới để cải tiến công việc, kinh nghiệm và đây cũng là nơi để phát hiện, tuyển chọn và đào tạo con người. Tạo việc làm nhiều hơn: Trong nền kinh tế thị trường, sự tập trung đổi mới cho phép các doanh nghiệp tìm ra các thị trường ngách và cung cấp nhiều công việc mới với mức lương cao tại các địa phương. Nhược điểm của nền kinh tế thị trường là gì?Sự bất bình đẳng trong xã hội: Sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo sẽ dẫn tới bất bình đẳng trong xã hội, người giàu sẽ sử dụng lợi thế của mình để giàu hơn trong khi người nghèo lại càng nghèo hơn. Trong cạnh tranh, các nhà sản xuất nhỏ lẻ sẽ bị các nhà sản xuất lớn mạnh thôn tính và nền kinh tế dần trở thành độc quyền chi phối. Dễ gây ra mất cân bằng cung – cầu gây nên khủng hoảng kinh tế: Do chạy theo lợi nhuận nên các doanh nghiệp sẽ đầu tư mở rộng sản xuất, các công ty đầu tư phát triển khiến nguồn cung tăng mạnh trong khi cầu tăng không tương xứng. Hiện tượng này tích lũy theo thời gian sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa khiến các doanh nghiệp đi vào phá sản và gây nên khủng hoảng kinh tế. Trên đây, chúng tôi đã cùng bạn đọc tìm hiểu về khái niệm nền kinh tế thị trường là gì cũng như các vấn đề liên quan đến kiểu tổ chức kinh tế xã hội này. Hy vọng với những kiến thức đã sưu tầm trong bài viết này, bạn đọc sẽ áp dụng một cách hiệu quả vào trong công tác học tập. |