Trái đất tồn tại được bao lâu
Khoa học đang tiến gần tới khám phá cách thức và thời điểm con người có thể bị diệt vong. Kể từ khi sự sống hình thành trên trên Trái đất khoảng 3,5 tỷ năm trước, nguy cơ hủy diệt cũng đã bắt đầu xuất hiện. Trên hành tinh của chúng ta, sự tuyệt chủng là một quy phạm trong đó có 4 tỷ loài đã tiến hóa và 99% số đó bị tuyệt chủng. Thiên nhiên nổi giận chỉ là chuyện viễn tưởng Show
Kể từ khi sự sống hình thành trên trên Trái đất khoảng 3,5 tỷ năm trước, nguy cơ hủy diệt cũng đã bắt đầu xuất hiện. Trên hành tinh của chúng ta, sự tuyệt chủng là một quy phạm trong đó có 4 tỷ loài đã tiến hóa và 99% số đó bị tuyệt chủng.Trong thực tế, chúng ta sẽ không thể biết, bằng cách nào và khi nào trái đất (con người) sẽ biến mất hoàn toàn. Việc dự đoán cho sự kiện này đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của nhiều tôn giáo lớn trên thế giới. Tuy nhiên, khi nhìn qua ống kính của giới khoa học Ngày tận thế trở nên "thú vị" hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, cứ vài trăm ngàn năm lại có một NEO rộng hơn 1km va chạm với trái đất. Và cứ hàng trăm triệu năm lại có một NEO rộng hơn 6km va chạm với trái đất, gây nạn tuyệt chủng hàng loạt. Một nguy cơ khác đe dọa tới sự sống còn của trái đất chính là các thảm họa tự nhiên như sự thay đổi đột ngột của khí hậu hay các vụ phun trào núi lửa lớn. Tất cả những yếu tố này tạo ra thảm họa toàn cầu, quét sạch sự sống trên hành tinh. Ngoài ra, những mối đe dọa từ vũ trụ luôn tồn tại song song với sự sống của trái đất như sự va chạm của thiên hà Milky Way của chúng ta với thiên hà Andromeda hay sự xuất hiện của hố đen. Thông thường, chúng ta dường như không thể làm gì để ngăn chặn những mối đe dọa trên ngay cả khi chúng ta biết những mối nguy hiểm này tồn tại, ngoại trừ việc tìm ra cách để tồn tại khi thảm họa xảy ra. Con người mới là thủ phạm Nhưng trong thực tế, mối đe dọa lớn nhất với con người lại xuất phát từ chính hoạt động thường ngày của họ. Trong lịch sử trái đất, con người là loài duy nhất có khả năng tái tạo thế giới cũng như phá hủy nó. Theo tiến sỹ Nick Bostrom, Giám đốc Viện Tương lai nhân loại tại Đại học Oxford viết trong ấn phẩm Global Agenda của Diễn đàn Kinh tế thế giới, những mối nguy hiểm từ bên ngoài như sao chổi hay thiên thạch chỉ là những nguy cơ "có liên quan tới các hiện tượng tiểu thuyết viễn tưởng" và thực tế là chúng cực kỳ hiếm khi xảy ra trong khi những mối nguy rất hiện hữu như biến đổi khí hậu, nạn ô nhiễm môi trường, cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và vũ khí hạt nhân lại chưa được quan tâm đúng mức.
Trong khi đó, công nghệ nano, sinh học tổng hợp và biến đổi gen tạo ra viễn cảnh cung cấp cho con người nguồn thức ăn dồi dào hơn, các loại thuốc an toàn hơn và một thế giới sạch hơn, nhưng nó sẽ phản tác dụng nếu chúng ta áp dụng sai công nghệ hoặc không tính tới những hậu quả tiềm ẩn từ việc áp dụng nó.
Martin Rees, nhà thiên văn học người Anh đã cảnh báo trong cuốn sách “Our Final Century?” (tạm dịch: Đây là thế kỷ cuối của loài người?" được xuất bản năm 2003 rằng, khả năng tồn tại của nền văn minh nhân loại tới năm 2100 là không quá 50% do tác động của công nghệ toàn cầu như nạn khủng bố sinh học và công nghệ nano phân tử.
Phát biểu tại Diễn đàn kinh tế thế giới 2006, xem xét các thảm họa toàn cầu, tiến sĩ Bostrom đã đưa ra lời khuyên rằng, với những mối rủi ro hiện hữu, thách thức đặt ra cho chúng ta không phải là phớt lờ chúng hay xem xét chúng trong nỗi thất vọng, mà cần phải tìm hiểu và tiến hành những phương pháp tốt nhất để bảo vệ trái đất an toàn hơn. Theo Guardian/infonet
Các nhà khoa học hy vọng rằng, trong tương lai, con người có thể sinh sống tại các hành tinh ngoài Trái Đất. Nhưng đó là điều không dễ.
M.B (Theo Bright Side) Một tiểu hành tinh đã lao vào Trái Đất cách đây 66 triệu năm về trước, được cho là đã hủy diệt khoảng 80% các loài động vật bao gồm cả loài khủng long. Tuổi của Trái Đất tính đến hiện tại được ước tính là 4,54 năm (4,54 × 109 năm ± 1%).[1][2][3][4] Giá trị này được xác định bằng phương pháp định tuổi bằng đồng vị phóng xạ cho các thiên thạch dạng chondrit, và cho vật liệu có tuổi cổ nhất trên Trái Đất đã được biết đến, cũng như các mẫu trên Mặt Trăng. Năm 1862, nhà vật lý học William Thomson đã tính toán tuổi của Trái Đất vào khoảng 20 đến 400 triệu năm.[17][18] Ông giả định rằng Trái Đất được hình thành từ một vật thể hoàn toàn nóng chảy, và xác định rằng nó cần một khoảng thời gian để lớp gần bề mặt nó nguội lạnh như hiện nay. Các tính toán của ông không tính đến nhiệt sinh ra từ hoạt động phân rã phóng xạ hay sự đối lưu bên trong Trái Đất, các quá trình này cho phép nhiệt thóa ra nhiều hơn từ bên trong lòng đất để nung nóng các đá gần bề mặt.[17] Các nhà địa chất học như Charles Lyell không đồng tình với tuổi của Trái Đất ngắn như thế. Còn các nhà sinh học, thậm chí cho rằng 100 triệu năm còn quá ngắn để chấp nhận được. Trong thuyết tiến hóa của Charles Darwin, quá trình biến đổi di truyền ngẫu nhiên với sự chọn lọc tự nhiên tích lũy cũng cần khoảng thời gian dài. (Theo sinh học hiện đại, tổng thời gian tiến hóa từ khi bắt đầu sự sống đến ngày nay mất 3,5 đến 3,8 tỉ năm, là khoảng thời gian đã qua kể từ khi tổ tiên của tất cả sự sống được ghi nhận qua việc xác định niên đại địa chất.[19]) Trong một bài giảng năm 1869, Thomas H. Huxley, cho rằng tính toán của Thomson là chính xác như dựa trên giả định sai. Nhà vật lý học Hermann von Helmholtz (năm 1856) và nhà thiên văn học Simon Newcomb (năm 1892) đã đưa ra hai giá trị tuổi theo cách tính của họ lần lượt là 22 và 18 triệu năm: họ tính toán một cách độc lập thời gian cần để Mặt Trời co lại đến kích thước (bán kính) và độ sáng hiện tại từ tinh vân khí và bụi khi nó được hình thành.[20] Các giá trị của họ phù hợp với tính toán của Thomson. Tuy nhiên, họ giả định rằng Mặt Trời chỉ phát sáng từ sự co hấp dẫn. Quá trình tổng hợp hạt nhân này của Mặt Trời đã chưa được khoa học biết đến vào thời điểm đó. Các nhà khoa học khác cũng sử dụng số liệu của Thomson. Con của Charles Darwin, nhà thiên văn học George H. Darwin, cho rằng Trái Đất và Mặt Trăng bị tách ra vào thời điểm hình thành khi đó cả hai đề nóng chảy. Ông tính thời gian cần để cho ma sát thủy triều đối với Trái Đất hiện tại là 24 giờ. Giá trị ông đưa ra là 56 triệu năm đã bổ sung thêm bằng chứng rằng Thomson đã đi đúng hướng.[20] Giá trị ước tính cuối cùng của Thomson đưa ra năm 1897 là: "Trái Đất có tuổi hơn 20 và nhỏ hơn 40 triệu năm, và có thể nó gần với giá trị 20 hơn 40".[21] Năm 1899 và 1900, John Joly đã tính toán tốc độ các đại dương tích tụ muối từ các quá trình xói mòn, và xác định rằng các đại dương có tuổi khoảng 80 đến 100 triệu năm.[20]. Định tuổi bằng đồng vị phóng xạSửa đổiĐịnh tuổi bằng đồng vị phóng xạ dùng cho xác định tuổi tuyệt đối (tuổi tính theo độ dài năm thiên văn hiện tại) các loại đá, dựa theo hiện tượng khi đá hóa rắn thì nó chốt lại trong khối các đồng vị phóng xạ, và sản phẩm phân rã không bị thoát mất. Tỷ lệ các đồng vị sản phẩm phản ánh độ dài thời gian từ khi hóa rắn đến nay. Tùy theo giá trị tuổi chờ đợi mà chọn đồng vị đặc trưng dùng cho đo đạc và tính toán. Để xác định tuổi Trái Đất thì định tuổi bằng đồng vị phóng xạ thực hiện cho đá cổ nhất của Trái Đất được tìm thấy, và đặc biệt là loại thiên thạch gọi là chondrit. Chondrit được hình thành khi nhiều loại bụi và hạt nhỏ đã có mặt từ đầu trong hệ Mặt trời, tụ lại tạo thành các tiểu hành tinh cổ xưa, nhưng là loại tích tụ có kích thước đủ nhỏ để không ở trạng thái tan chảy. Nó được coi là "trầm tích vũ trụ", chốt lại trong nó thông tin về lúc hình thành hệ Mặt trời. Những va chạm đã đẩy các mảnh của tiểu hành tinh chondritic đến Trái Đất, và cỡ 86% thiên thạch thu được ở mặt đất là chondrit [22][23]. Nhà địa chất học Clair Patterson là người đầu tiên xác định tuổi Trái Đất với kết quả tin cậy. Sau 6 năm miệt mài nghiên cứu, ông đã có điều kiện để đo đạc lượng chì và urani có trong mẫu thiên thạch sắt và tính ra được tuổi thực của Trái Đất. Kết quả của ông khá chính xác. Hành tinh của chúng ta đã được 4,5 tỉ năm tuổi. Ngày nay phép định tuổi theo 206Pb/204Pb cho chondrit cho ra tuổi 4566,6 ± 1,0 Ma (triệu năm) [24], phù hợp với các kết quả định tuổi khác, và được coi là giá trị cao nhất của tuổi các hành tinh, do các hành tinh cần thời gian dài hơn để tích tụ. Tham khảoSửa đổi
Đọc thêmSửa đổi
Xem thêmSửa đổi
Liên kết ngoàiSửa đổi
|