Trái đất tồn tại được bao lâu

Khoa học đang tiến gần tới khám phá cách thức và thời điểm con người có thể bị diệt vong. Kể từ khi sự sống hình thành trên trên Trái đất khoảng 3,5 tỷ năm trước, nguy cơ hủy diệt cũng đã bắt đầu xuất hiện. Trên hành tinh của chúng ta, sự tuyệt chủng là một quy phạm trong đó có 4 tỷ loài đã tiến hóa và 99% số đó bị tuyệt chủng.

Thiên nhiên nổi giận chỉ là chuyện viễn tưởng

Trong những năm qua, khán giả đặc biệt quan tâm tới những bộ phim về thảm họa thiên nhiên liên quan tới ngày tàn của thế giới như trong “28 Days Later” (tạm dịch: 28 ngày sau) của đạo diễn Danny Boyle xoay quanh một loại virus gây ra căn bệnh truyền nhiễm bùng phát trên toàn nước Anh, đẩy nền văn minh nhân loại vào nguy cơ tuyệt diệt; hay một tiểu hành tinh đe dọa tới sự tồn tại của trái đất trong phim Deep Impact and Armageddon (tạm dịch: Thảm họa kinh hoàng) và cả hiện tượng biến đổi khí hậu trong The Day After Tomorrow (tạm dịch: Ngày tận thế).
Trái đất tồn tại được bao lâu
Ngày tận thế với nguyên nhân là một vụ va chạm với thiên thạch gần như chỉ có trong tưởng tượng. (Ảnh minh họa)

Kể từ khi sự sống hình thành trên trên Trái đất khoảng 3,5 tỷ năm trước, nguy cơ hủy diệt cũng đã bắt đầu xuất hiện. Trên hành tinh của chúng ta, sự tuyệt chủng là một quy phạm trong đó có 4 tỷ loài đã tiến hóa và 99% số đó bị tuyệt chủng.Trong thực tế, chúng ta sẽ không thể biết, bằng cách nào và khi nào trái đất (con người) sẽ biến mất hoàn toàn. Việc dự đoán cho sự kiện này đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của nhiều tôn giáo lớn trên thế giới. Tuy nhiên, khi nhìn qua ống kính của giới khoa học Ngày tận thế trở nên "thú vị" hơn rất nhiều.


Đặc biệt, trong 500 triệu năm qua, đã có 5 giai đoạn tốc độ tuyệt chủng của các loài đã tăng lên. Không ai biết chắc chắn cái gì đã biến trái đất không phải là sống lý tưởng cho sinh vật, khi mà hơn 75% các loài hiện hữu đã biến mất.


Theo kịch bản về ngày tận thế của Hollywood, một tiểu hành tinh đủ lớn sẽ đâm vào trái đất, gây ra các trận động đất và sóng thần lớn trên toàn thế giới. Lượng bụi trong không khí đủ lớn để che khuất ánh nắng mặt trời trong nhiều năm. Kết quả là nguồn thức ăn trên thế giới sẽ bị phá hủy, dẫn đến nạn đói. Trước đây, hiện tượng này đã xảy ra với loài khủng long (cùng với hơn một nửa các loài khác trên trái đất) bị xóa sổ từ 65 triệu năm trước bởi một tiểu hành tinh rộng 10km đã đâm vào khu vực quanh Mexico.


Monica Grady, chuyên gia nghiên cứu thiên thạch tại Đại học Mở (Anh) cho biết, câu hỏi đặt ra là khi nào một vật thể gần trái đất (NEO) sẽ va chạm với hành tinh của chúng ta bởi nhiều vật thể mang kích cỡ nhỏ hơn đã bị vỡ vụn khi tiến gần tới bầu khí quyển của trái đất, mà không tạo ra bất cứ ảnh hưởng nào.

Tuy nhiên, cứ vài trăm ngàn năm lại có một NEO rộng hơn 1km va chạm với trái đất. Và cứ hàng trăm triệu năm lại có một NEO rộng hơn 6km va chạm với trái đất, gây nạn tuyệt chủng hàng loạt.

Một nguy cơ khác đe dọa tới sự sống còn của trái đất chính là các thảm họa tự nhiên như sự thay đổi đột ngột của khí hậu hay các vụ phun trào núi lửa lớn. Tất cả những yếu tố này tạo ra thảm họa toàn cầu, quét sạch sự sống trên hành tinh.

Ngoài ra, những mối đe dọa từ vũ trụ luôn tồn tại song song với sự sống của trái đất như sự va chạm của thiên hà Milky Way của chúng ta với thiên hà Andromeda hay sự xuất hiện của hố đen. Thông thường, chúng ta dường như không thể làm gì để ngăn chặn những mối đe dọa trên ngay cả khi chúng ta biết những mối nguy hiểm này tồn tại, ngoại trừ việc tìm ra cách để tồn tại khi thảm họa xảy ra. Con người mới là thủ phạm

Nhưng trong thực tế, mối đe dọa lớn nhất với con người lại xuất phát từ chính hoạt động thường ngày của họ. Trong lịch sử trái đất, con người là loài duy nhất có khả năng tái tạo thế giới cũng như phá hủy nó.

Theo tiến sỹ Nick Bostrom, Giám đốc Viện Tương lai nhân loại tại Đại học Oxford viết trong ấn phẩm Global Agenda của Diễn đàn Kinh tế thế giới, những mối nguy hiểm từ bên ngoài như sao chổi hay thiên thạch chỉ là những nguy cơ "có liên quan tới các hiện tượng tiểu thuyết viễn tưởng" và thực tế là chúng cực kỳ hiếm khi xảy ra trong khi những mối nguy rất hiện hữu như biến đổi khí hậu, nạn ô nhiễm môi trường, cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và vũ khí hạt nhân lại chưa được quan tâm đúng mức.

Trái đất tồn tại được bao lâu
Tương lai của Trái Đất hay sự diệt vong của loài người chủ yếu phụ thuộc vào chính... con người.

Trong khi đó, công nghệ nano, sinh học tổng hợp và biến đổi gen tạo ra viễn cảnh cung cấp cho con người nguồn thức ăn dồi dào hơn, các loại thuốc an toàn hơn và một thế giới sạch hơn, nhưng nó sẽ phản tác dụng nếu chúng ta áp dụng sai công nghệ hoặc không tính tới những hậu quả tiềm ẩn từ việc áp dụng nó.


Loài người còn tồn tại bao nhiêu năm nữa?

Martin Rees, nhà thiên văn học người Anh đã cảnh báo trong cuốn sách “Our Final Century?” (tạm dịch: Đây là thế kỷ cuối của loài người?" được xuất bản năm 2003 rằng, khả năng tồn tại của nền văn minh nhân loại tới năm 2100 là không quá 50% do tác động của công nghệ toàn cầu như nạn khủng bố sinh học và công nghệ nano phân tử.


Mối nguy hiểm tiềm năng tiếp theo phải kể đến chính từ những thành tựu vang dội trong quá khứ. Xã hội của chúng ta đang kết nối và vi tính hóa rộng hơn bao giờ hết. Nó giúp thúc đẩy ngành thương mại, tiếp cận kho tri thức, giáo dục, truyền thông. Nhưng chính những mối liên kết trên có thể làm virus lây lan một cách nhanh nhất. Chỉ cần một lỗi trong hệ thống kỹ thuật số tại Mỹ cũng có thể ảnh hưởng tới Trung Quốc hoặc Úc chỉ trong vài giây.


Thật là mỉa mai khi cho rằng cái bóng của những mối nguy hiểm tiềm ẩn đang che mờ những kiến thức của chúng ta về vũ trụ.


Isaac Newton từng tin rằng ngày tận thế sẽ xảy ra vào thế kỷ 21, hay một cuộc chiến sẽ nhấn chìm nhiều quốc gia trong biển máu nhưng chưa ai dự đoán ngày tàn của thế giới lại bắt nguồn từ bom hạt nhân, hố đen, hay mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu.


Jason Matheny, nhà quản lý chương trình Dự án nghiên cứu tình báo của chính phủ Mỹ đã thường xuyên xem xét những nguy cơ tiềm năng đe dọa con người. Trong bản báo cáo "Risk Analysis" (tạm dịch: Phân tích rủi ro) năm 2007, ông đã đề cập tới sự hủy diệt không tránh khỏi của mặt trời.


Trong một tỷ năm, mặt trời sẽ bắt đầu giai đoạn nóng nhất, khiến nhiệt độ mặt đất tăng lên trên 1.000 độ, đun nóng bầu khí quyển, hình thành một tinh vân hành tinh, khiến trái đất trở nên khắc nghiệt hơn với sự sống. Nếu chúng ta xâm chiếm các hệ năng lượng mặt trời khác, chúng ta có thể tồn tại lâu hơn cả mặt trời, thêm 100 nghìn tỷ năm.


Nhưng dường như con người không thể sống lâu như vậy bởi người thông tuệ cũng chỉ sống được 200.000 năm và giống người đứng thẳng – họ hàng gần nhất với con người tồn tại khoảng 1,8 triệu năm, trong đó thời gian sống trung bình của các loài động vật có vú là khoảng 2,2 triệu năm.

Phát biểu tại Diễn đàn kinh tế thế giới 2006, xem xét các thảm họa toàn cầu, tiến sĩ Bostrom đã đưa ra lời khuyên rằng, với những mối rủi ro hiện hữu, thách thức đặt ra cho chúng ta không phải là phớt lờ chúng hay xem xét chúng trong nỗi thất vọng, mà cần phải tìm hiểu và tiến hành những phương pháp tốt nhất để bảo vệ trái đất an toàn hơn.

Theo Guardian/infonet

Các nhà khoa học hy vọng rằng, trong tương lai, con người có thể sinh sống tại các hành tinh ngoài Trái Đất. Nhưng đó là điều không dễ.

M.B (Theo Bright Side)

Trái đất tồn tại được bao lâu

Một tiểu hành tinh đã lao vào Trái Đất cách đây 66 triệu năm về trước, được cho là đã hủy diệt khoảng 80% các loài động vật bao gồm cả loài khủng long.

Tuổi của Trái Đất tính đến hiện tại được ước tính là 4,54 năm (4,54 × 109 năm ± 1%).[1][2][3][4] Giá trị này được xác định bằng phương pháp định tuổi bằng đồng vị phóng xạ cho các thiên thạch dạng chondrit, và cho vật liệu có tuổi cổ nhất trên Trái Đất đã được biết đến, cũng như các mẫu trên Mặt Trăng.

Trái đất tồn tại được bao lâu

William Thomson (Lord Kelvin)

Năm 1862, nhà vật lý học William Thomson đã tính toán tuổi của Trái Đất vào khoảng 20 đến 400 triệu năm.[17][18] Ông giả định rằng Trái Đất được hình thành từ một vật thể hoàn toàn nóng chảy, và xác định rằng nó cần một khoảng thời gian để lớp gần bề mặt nó nguội lạnh như hiện nay. Các tính toán của ông không tính đến nhiệt sinh ra từ hoạt động phân rã phóng xạ hay sự đối lưu bên trong Trái Đất, các quá trình này cho phép nhiệt thóa ra nhiều hơn từ bên trong lòng đất để nung nóng các đá gần bề mặt.[17]

Các nhà địa chất học như Charles Lyell không đồng tình với tuổi của Trái Đất ngắn như thế. Còn các nhà sinh học, thậm chí cho rằng 100 triệu năm còn quá ngắn để chấp nhận được. Trong thuyết tiến hóa của Charles Darwin, quá trình biến đổi di truyền ngẫu nhiên với sự chọn lọc tự nhiên tích lũy cũng cần khoảng thời gian dài. (Theo sinh học hiện đại, tổng thời gian tiến hóa từ khi bắt đầu sự sống đến ngày nay mất 3,5 đến 3,8 tỉ năm, là khoảng thời gian đã qua kể từ khi tổ tiên của tất cả sự sống được ghi nhận qua việc xác định niên đại địa chất.[19])

Trong một bài giảng năm 1869, Thomas H. Huxley, cho rằng tính toán của Thomson là chính xác như dựa trên giả định sai. Nhà vật lý học Hermann von Helmholtz (năm 1856) và nhà thiên văn học Simon Newcomb (năm 1892) đã đưa ra hai giá trị tuổi theo cách tính của họ lần lượt là 22 và 18 triệu năm: họ tính toán một cách độc lập thời gian cần để Mặt Trời co lại đến kích thước (bán kính) và độ sáng hiện tại từ tinh vân khí và bụi khi nó được hình thành.[20] Các giá trị của họ phù hợp với tính toán của Thomson. Tuy nhiên, họ giả định rằng Mặt Trời chỉ phát sáng từ sự co hấp dẫn. Quá trình tổng hợp hạt nhân này của Mặt Trời đã chưa được khoa học biết đến vào thời điểm đó.

Các nhà khoa học khác cũng sử dụng số liệu của Thomson. Con của Charles Darwin, nhà thiên văn học George H. Darwin, cho rằng Trái Đất và Mặt Trăng bị tách ra vào thời điểm hình thành khi đó cả hai đề nóng chảy. Ông tính thời gian cần để cho ma sát thủy triều đối với Trái Đất hiện tại là 24 giờ. Giá trị ông đưa ra là 56 triệu năm đã bổ sung thêm bằng chứng rằng Thomson đã đi đúng hướng.[20]

Giá trị ước tính cuối cùng của Thomson đưa ra năm 1897 là: "Trái Đất có tuổi hơn 20 và nhỏ hơn 40 triệu năm, và có thể nó gần với giá trị 20 hơn 40".[21] Năm 1899 và 1900, John Joly đã tính toán tốc độ các đại dương tích tụ muối từ các quá trình xói mòn, và xác định rằng các đại dương có tuổi khoảng 80 đến 100 triệu năm.[20].

Định tuổi bằng đồng vị phóng xạSửa đổi

Định tuổi bằng đồng vị phóng xạ dùng cho xác định tuổi tuyệt đối (tuổi tính theo độ dài năm thiên văn hiện tại) các loại đá, dựa theo hiện tượng khi đá hóa rắn thì nó chốt lại trong khối các đồng vị phóng xạ, và sản phẩm phân rã không bị thoát mất. Tỷ lệ các đồng vị sản phẩm phản ánh độ dài thời gian từ khi hóa rắn đến nay. Tùy theo giá trị tuổi chờ đợi mà chọn đồng vị đặc trưng dùng cho đo đạc và tính toán.

Để xác định tuổi Trái Đất thì định tuổi bằng đồng vị phóng xạ thực hiện cho đá cổ nhất của Trái Đất được tìm thấy, và đặc biệt là loại thiên thạch gọi là chondrit. Chondrit được hình thành khi nhiều loại bụi và hạt nhỏ đã có mặt từ đầu trong hệ Mặt trời, tụ lại tạo thành các tiểu hành tinh cổ xưa, nhưng là loại tích tụ có kích thước đủ nhỏ để không ở trạng thái tan chảy. Nó được coi là "trầm tích vũ trụ", chốt lại trong nó thông tin về lúc hình thành hệ Mặt trời. Những va chạm đã đẩy các mảnh của tiểu hành tinh chondritic đến Trái Đất, và cỡ 86% thiên thạch thu được ở mặt đất là chondrit [22][23].

Nhà địa chất học Clair Patterson là người đầu tiên xác định tuổi Trái Đất với kết quả tin cậy. Sau 6 năm miệt mài nghiên cứu, ông đã có điều kiện để đo đạc lượng chì và urani có trong mẫu thiên thạch sắt và tính ra được tuổi thực của Trái Đất. Kết quả của ông khá chính xác. Hành tinh của chúng ta đã được 4,5 tỉ năm tuổi.

Ngày nay phép định tuổi theo 206Pb/204Pb cho chondrit cho ra tuổi 4566,6 ± 1,0 Ma (triệu năm) [24], phù hợp với các kết quả định tuổi khác, và được coi là giá trị cao nhất của tuổi các hành tinh, do các hành tinh cần thời gian dài hơn để tích tụ.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ “Age of the Earth”. U.S. Geological Survey. 1997. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 12 năm 2005. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2006.
  2. ^ Dalrymple, G. Brent (2001). “The age of the Earth in the twentieth century: a problem (mostly) solved”. Special Publications, Geological Society of London. 190 (1): 205–221. Bibcode:2001GSLSP.190..205D. doi:10.1144/GSL.SP.2001.190.01.14. S2CID130092094.
  3. ^ Manhesa, Gérard; Allègre, Claude J.; Dupréa, Bernard & Hamelin, Bruno (1980). “Lead isotope study of basic-ultrabasic layered complexes: Speculations about the age of the earth and primitive mantle characteristics”. Earth and Planetary Science Letters. 47 (3): 370–382. Bibcode:1980E&PSL..47..370M. doi:10.1016/0012-821X(80)90024-2.
  4. ^ Braterman, Paul S. (2013). “How Science Figured Out the Age of Earth”. Scientific American. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2016.
  5. ^ Boltwood, B. B. (1907). “On the ultimate disintegration products of the radio-active elements. Part II. The disintegration products of uranium”. American Journal of Science. 23: 77–88.
    For the abstract, see: Chemical Abstracts. New York, London: American Chemical Society. 1907. tr.817. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
  6. ^ Wilde, S. A.; Valley, J. W.; Peck, W. H.; Graham C. M. (ngày 11 tháng 1 năm 2001). “Evidence from detrital zircons for the existence of continental crust and oceans on the Earth 4.4 Gyr ago”. Nature. 409: 175–178. doi:10.1038/35051550.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  7. ^ Valley, John W.; Peck, William H.; Kin, Elizabeth M. (1999). “Zircons Are Forever” (PDF). The Outcrop, Geology Alumni Newsletter. University of Wisconsin-Madison. tr.34–35. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2008.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  8. ^ Wyche, S.; Nelson, D. R.; Riganti, A. (2004). “4350–3130 Ma detrital zircons in the Southern Cross Granite–Greenstone Terrane, Western Australia: implications for the early evolution of the Yilgarn Craton”. Australian Journal of Earth Sciences. 51 (1): 31–45. doi:10.1046/j.1400-0952.2003.01042.x.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  9. ^ Amelin, Y; Krot, An; Hutcheon, Id; Ulyanov, Aa (2002). “Lead isotopic ages of chondrules and calcium-aluminum-rich inclusions”. Science (New York, N.Y.). 297 (5587): 1678–83. doi:10.1126/science.1073950. ISSN0036-8075. PMID12215641.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  10. ^ Baker, J.; Bizzarro, M.; Wittig, N.; Connelly, J.; Haack, H. (ngày 25 tháng 8 năm 2005). “Early planetesimal melting from an age of 4.5662 Gyr for differentiated meteorites”. Nature. 436: 1127–1131. doi:10.1038/nature03882.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  11. ^ Bowring, Samuel A.; Williams, Ian S. (1999). “Priscoan (4.00-4.03Ga) orthogneisses from northwestern Canada”. Contributions to Mineralogy and Petrology. 134 (1): 3–16. Bibcode:1999CoMP..134....3B. doi:10.1007/s004100050465.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  12. ^ Lyell, Charles, Sir (1866). Elements of Geology; or, The Ancient Changes of the Earth and its Inhabitants as Illustrated by Geological Monuments . New York: D. Appleton and company. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
  13. ^ a b Stiebing, William H. (1994). Uncovering the Past. Oxford University Press US. ISBN0-19-508921-9.
  14. ^ a b Brookfield, Michael E. (2004). Principles of Stratigraphy. Blackwell Publishing. tr.116. ISBN1-4051-1164-X.
  15. ^ Fuller, J. G. C. M. (ngày 17 tháng 7 năm 2007). “Smith's other debt, John Strachey, William Smith and the strata of England 1719–1801”. Geoscientist. The Geological Society. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2008.
  16. ^ Burchfield, Joe D. (1998). “The age of the Earth and the invention of geological time”. Geological Society, London, Special Publications. 143 (1): 137–143. Bibcode:1998GSLSP.143..137B. doi:10.1144/GSL.SP.1998.143.01.12.
  17. ^ a b England, P.; Molnar, P.; Righter, F. (tháng 1 năm 2007). “John Perry's neglected critique of Kelvin's age for the Earth: A missed opportunity in geodynamics”. GSA Today. 17 (1): 4–9. doi:10.1130/GSAT01701A.1.
  18. ^ Dalrymple (1994) pp. 14–17, 38
  19. ^ Borenstein, Seth (ngày 13 tháng 11 năm 2013). “Oldest fossil found: Meet your microbial mom”. Excite. Yonkers, NY: Mindspark Interactive Network. Associated Press. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2015.)
  20. ^ a b c Dalrymple (1994) pp. 14–17
  21. ^ Dalrymple (1994) pp. 14, 43
  22. ^ Calvin J. Hamilton (Translated from English by Antonio Bello). “Meteoroides y Meteoritos” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2009.
  23. ^ Bischoff, A.; Geiger, T. (1995). “Meteorites for the Sahara: Find locations, shock classification, degree of weathering and pairing”. Meteoritics. 30 (1): 113–122. Bibcode:1995Metic..30..113B. doi:10.1111/j.1945-5100.1995.tb01219.x. ISSN0026-1114.
  24. ^ Amelin, Yuri; Krot, Alexander (2007). “Pb isotopic age of the Allende chondrules”. Meteoritics & Planetary Science. 42 (7/8): 1043–1463. Bibcode:2007M&PS...42.1043F. doi:10.1111/j.1945-5100.2007.tb00559.x. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2009.

Đọc thêmSửa đổi

  • Baadsgaard, H.; Lerbekmo, J.F.; Wijbrans, J.R., 1993. Multimethod radiometric age for a bentonite near the top of the Baculites reesidei Zone of southwestern Saskatchewan (Campanian-Maastrichtian stage boundary?). Canadian Journal of Earth Sciences, quyển 30, tr.769–775.
  • Baadsgaard, H. and Lerbekmo, J.F., 1988. A radiometric age for the Cretaceous-Tertiary boundary based on K-Ar, Rb-Sr, and U-Pb ages of bentonites from Alberta, Saskatchewan, and Montana. Canadian Journal of Earth Sciences, quyển 25, tr.1088–1097.
  • Eberth, D.A. và Braman, D., 1990. Stratigraphy, sedimentology, and vertebrate paleontology of the Judith River Formation (Campanian) near Muddy Lake, west-central Saskatchewan. Bulletin of Canadian Petroleum Geology, quyển.38, số 4, tr.387–406.
  • Goodwin, M.B. and Deino, A.L., 1989. The first radiometric ages from the Judith River Formation (Upper Cretaceous), Hill County, Montana. Canadian Journal of Earth Sciences, quyển 26, tr.1384–1391.
  • Gradstein, F. M.; Agterberg, F.P.; Ogg, J.G.; Hardenbol, J.; van Veen, P.; Thierry, J. và Zehui Huang., 1995. A Triassic, Jurassic and Cretaceous time scale. IN: Bergren, W. A.; Kent, D.V.; Aubry, M-P. và Hardenbol, J. (tác giả), Geochronology, Time Scales, and Global Stratigraphic Correlation. Society of Economic Paleontologists and Mineralogists, Special Publication số 54, tr.95–126.
  • Harland, W.B., Cox, A.V.; Llewellyn, P.G.; Pickton, C.A.G.; Smith, A.G.; và Walters, R., 1982. A Geologic Time Scale: 1982 edition. Nhà in Đại học Cambridge: Cambridge, 131tr.
  • Harland, W.B.; Armstrong, R.L.; Cox, A.V.; Craig, L.E.; Smith, A.G.; Smith, D.G., 1990. A Geologic Time Scale, 1989 edition. Nhà in Đại học Cambridge: Cambridge, tr.1–263. ISBN 0-521-38765-5
  • Harper, C.W., Jr., 1980. Relative age inference in paleontology. Lethaia, quyển 13, tr.239–248.
  • Lubenow, M.L., 1992. Bones of Contention: A Creationist Assessment of Human Fossils. Baker Book House: Grand Rapids.
  • Obradovich, J.D., 1993. A Cretaceous time scale. IN: Caldwell, W.G.E. và Kauffman, E.G. (eds.). Evolution of the Western Interior Basin. Geological Association of Canada, Special Paper 39, tr.379–396.
  • Palmer, Allison R. (compiler), 1983. The Decade of North American Geology 1983 Geologic Time Scale. Geology, quyển 11, tr.503–504. Ngày 12 tháng 9 năm 2004.
  • Powell, James Lawrence, 2001, Mysteries of Terra Firma: the Age and Evolution of the Earth, Simon & Schuster, ISBN 0-684-87282-X

Xem thêmSửa đổi

  • Tuổi của vũ trụ
  • Địa thời học
  • Lịch sử Trái Đất
  • Đá cổ nhất
  • Định tuổi bằng đồng vị phóng xạ
  • Tiền Cambri
  • Lịch sử tự nhiên

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • TalkOrigins.org[liên kết hỏng]
  • Vectorsite.net – Initial version of this article was based on a public domain text by Greg Goebel
  • USGS preface on the Age of the Earth
  • NASA exposition on the age of Martian meteorites
  • "Aging the Earth", BBC Radio 4 In Our Time series, 2003