"Công dân toàn cầu" là một định nghĩa khá mới, ra đời trong bối cảnh toàn cầu hóa từ đầu thế kỷ XXI. Cùng Prudential tìm hiểu rõ hơn về nhóm người được cho là có khả năng làm cầu nối mang lại lợi ích cho cộng đồng thế giới nhé!
Định nghĩa này không chỉ đề cập đến những người sinh sống và làm việc ở nhiều quốc gia, người tham gia các tổ chức phi lợi nhuận… mà còn đại diện cho những người có vốn hiểu biết đa dạng, từ kiến thức nền tảng đến lối sống, văn hóa của nhiều nước trên thế giới. Do đó, “công dân toàn cầu” có khả năng làm cầu nối về kiến thức, cơ hội phát triển để tạo nên giá trị hữu ích cho cộng đồng thế giới. Họ là đại diện cho những hoạt động nhân văn và góp phần khiến thế giới tốt đẹp hơn.
Và bạn hoàn toàn có thể rèn luyện con mình trở thành một “công dân toàn cầu” ngay từ lúc nhỏ bằng cách định hướng cách trẻ tư duy, đây cũng là cách bạn tạo bệ phóng để trẻ phát triển bản thân trong tương lai khi thế giới càng lúc càng “phẳng”. Một đứa trẻ được rèn luyện tư duy toàn cầu từ nhỏ sẽ thích nghi tốt hơn với mọi điều kiện sống và mang đến những điều ý nghĩa cho cuộc sống.
Trở thành công dân toàn cầu đồng nghĩa với việc chấp nhận một cuộc sống cực kỳ năng động và đòi hỏi sự thay đổi liên tục. Ngày nay, Internet đã mở rộng môi trường sống toàn cầu, xóa nhòa biên giới các nước, không ngừng đặt ra những thử thách, đòi hỏi ta phải thích nghi với lối sống và văn hóa mới mà không cần phải ra nước ngoài. Do đó, một tư duy cởi mở chính là điều kiện cần đầu tiên của một công dân toàn cầu. Tư duy cởi mở mới giúp con sẵn sàng đón nhận sự khác biệt của nhiều hệ giá trị văn hóa, nghệ thuật, cách tư duy và những ý nghĩa khác biệt.
Đồng thời, giữ được tự tin là điều không thể thiếu trong việc làm nên bản lĩnh của một công dân toàn cầu. Tự tin có thể vượt qua những thử thách mới ở bất kỳ quốc gia nào, tự tin để học hỏi những kinh nghiệm mới mỗi ngày.
Là công dân toàn cầu, ta phải chủ động thay đổi lối sống, tức “nhập gia tùy tục”. Điều đó đồng nghĩa với việc ta thay đổi thời khóa biểu của bản thân để phù hợp với quốc gia đang sinh sống. Có thể ở Việt Nam có thói quen tụ tập tiệc tùng sau giờ làm, nhưng ở quốc gia khác chỉ tiệc tùng vào cuối tuần. Vì thế, quan sát lối sống của người bản địa chính là chìa khóa đầu tiên để thích nghi và linh hoạt điều chỉnh các hoạt động của cá nhân.
Bạn có thể cùng con rèn luyện khả năng thích nghi linh hoạt với những điều kiện sống khác nhau ngay từ nhỏ, ví dụ cho con về quê sống cùng ông bà vài ngày, tham gia các trại hè ngắn hạn, hoặc các khóa hướng đạo sinh… để thay đổi thói quen sinh hoạt, giúp con nhận ra mình hoàn toàn có thể chủ động thay đổi để thích ứng với một cuộc sống khác mọi ngày.
Không quốc gia nào giống quốc gia nào! Một công dân toàn cầu luôn là người có sẵn tính tò mò và tình yêu khám phá. Họ đón nhận mọi điều ở môi trường mới bằng sự hứng khởi, sẵn sàng trải nghiệm những điều mới lạ. Hẳn vì thế mà các công dân toàn cầu luôn cảm thấy thú vị và không cảm thấy khó khăn khi đến một quốc gia mới. Họ tìm đến những nơi độc đáo của văn hóa bản địa, tìm hiểu lịch sử, thói quen của người địa phương. Họ đặt những câu hỏi “Tại sao?” để tìm những điều làm nên lối sống hiện tại của người bản địa để thấu hiểu và thích nghi tốt hơn.
Để bắt đầu gieo mầm cho sự khám phá của con, hãy cho bé đi du lịch thường xuyên, hoặc xem các chương trình khám phá cuộc sống chọn lọc cho trẻ em trên Tivi hoặc YouTube.
Một công dân toàn cầu đích thực luôn biết cách hòa mình vào lối sống của cư dân bản địa. Lời khuyên dành cho những người muốn trở thành công dân toàn cầu là: “đừng đến những nơi chỉ dành riêng cho người nước ngoài, hãy trải nghiệm tại những quán ăn địa phương, vui chơi ở nơi có nhiều người bản xứ tham gia nhất, tham gia các lễ hội địa phương, v.v…”
Hãy nói với con rằng “việc tự biến mình thành cư dân địa phương và sẵn sàng nếm trải những điều chưa trải qua” là cách giúp các công dân toàn cầu tạo nền tảng kiến thức và hiểu biết sâu sát tâm lý người địa phương để thực hiện các hoạt động kết nối đa quốc gia.
Hoang mang và sợ hãi luôn là điều mà bất cứ ai cũng phải đối mặt khi tiếp xúc với luồng văn hóa, tư duy mới. Cuộc sống ở quốc gia mới hẳn thật sự khó khăn, nhưng họ không hề nghĩ “cả thế giới đang chống lại mình”. Ngược lại, công dân toàn cầu xem đó là cơ hội để học hỏi thêm những điều mới và cố gắng thực hiện từng bước một. Họ mạnh dạn làm quen với những người bạn mới, nhờ họ chỉ dẫn để dần làm quen với những điều mời lạ. Việc nắm bắt mọi thứ, thay vì “trốn chạy” khiến họ mạnh mẽ và trưởng thành hơn.
Những thái độ sống nói trên được xem là những đặc điểm nhận diện một công dân toàn cầu, sẵn sàng trải nghiệm và đón nhận thử thách mới giúp họ hoàn thiện bản thân tốt hơn. Chính hiểu biết sâu rộng về thế giới và con người khiến họ biết cách làm nên những điều ý nghĩa cho chính mình và cuộc sống xung quanh.
Con bạn hoàn toàn có thể trở thành công dân toàn cầu trong tương lai khi được rèn luyện tư duy từ thuở bé. Theo dõi bài viết tiếp theo để nắm rõ bí quyết rèn luyện tư duy toàn cầu cho con nhé!
Một công dân kỹ thuật số [tiếng Anh: Digital citizen] là người có kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin để giao tiếp với người khác, tham gia vào các hoạt động xã hội, kinh doanh và chính trị trên nền tảng kỹ thuật số.[1] Công dân kỹ thuật số là một thành phần của công dân toàn cầu, họ cần có trách nhiệm, đạo đức với hành vi của mình trên nền tảng kỹ thuật số và sử dụng công nghệ để thúc đẩy kết nối cộng đồng trên toàn cầu và cùng nhau chia sẻ thông tin.[2] Công dân kỹ thuật số là người có kỹ năng, kiến thức và có thể truy cập Internet thông qua máy tính, điện thoại di động và các thiết bị kỹ thuật số khác để tương tác với cá nhân, tổ chức và cộng đồng.[3]
Đối tượng của công dân kỹ thuật số có thể là bất kỳ ai: một đứa trẻ, thanh thiếu niên hoặc người lớn, không giới hạn về giới tính, độ tuổi, sắc tộc, tôn giáo và nơi sống.
Công dân kỹ thuật số đóng vai trò như những người lãnh đạo, người học và người sáng tạo để tạo nên sự phong phú về nội dung, kiến thức và thông tin trên nền tảng kỹ thuật số. Đây là một cách hiệu quả để tạo nên nguồn thông tin đa dạng và giúp mọi người cập nhật thông tin kịp thời trong một thế giới luôn thay đổi như hiện nay.[4]
Công dân kỹ thuật số tồn tại giúp thúc đẩy các cơ hội kinh tế bình đẳng và tăng cường sự tham gia chính trị của tất cả mọi người. Bằng cách này, công nghệ kỹ thuật số giúp hạ thấp các rào cản gia nhập và giúp mọi người trên toàn thế giới đều có thể tham gia với tư cách là một công dân trong xã hội.
Mục lục
- 1 Hành vi của công dân kỹ thuật số
- 2 Thực trạng sử dụng nền tảng số của công dân kỹ thuật số
- 2.1 Thực trạng sử dụng nền tảng số của công dân kỹ thuật số toàn cầu
- 2.2 Thực trạng tham gia nền tảng số của thanh thiếu niên
- 3 Chín yếu tố của công dân kỹ thuật số
- 4 Ba nguyên tắc của công dân kỹ thuật số
- 5 Giáo dục công dân kỹ thuật số
- 5.1 Những kỹ năng cần thiết của công dân kỹ thuật số [36]
- 5.2 Văn hóa ứng xử[50]
- 5.3 An toàn trên nền tảng kỹ thuật số
- 6 Xem thêm
- 7 Tham khảo
- 8 Liên kết ngoài
Khái niệm công dân kỹ thuật số bắt đầu hình thành khi kỷ nguyên của thời đại số bùng nổ vào năm 1990. Kỷ nguyên này mở ra giúp mọi người trên toàn thế giới có thể kết nối với nhau thông qua các thiết bị kỹ thuật số. Phát minh gây bùng nổ kỷ nguyên số là nền tảng giao diện website, bắt đầu xuất hiện vào năm 1991. Nền tảng này giúp mọi người có thể dễ dàng kết nối với nhau và truy cập thông tin mà không yêu cầu về chuyên môn về lập trình hay chuyên môn về khoa học kỹ thuật. Khi đó, người dùng chỉ cần nhập địa chỉ trang web là có thể truy cập các tin tức trên toàn thế giới. Nền tảng website "world wide web" ra đời đã mở ra một thời kỳ mới, khi mà khái niệm internet chỉ dược dùng cho các nhà khoa học có chuyên môn cao về công nghệ thì giờ đây, công dân trên toàn thế giới đều có thể sử dụng được.
Hành vi công dân kỹ thuật số bắt đầu từ những hành động đơn giản nhất như: đọc báo trực tuyến, tra cứu thông tin,...đến các hành động phức tạp hơn: tạo blog,sử dụng mạng xã hội, tham gia chia sẻ quan điểm trên các cộng đồng mạng, sử dụng nền tảng thương mại điện tử để mua bán hàng hóa trực tuyến hoặc ứng dụng kỹ thuật số vào quản lý doanh nghiệp và các hoạt động trong mô hình B2B [Doanh nghiệp đến doanh nghiệp] hoặc B2C [Doanh nghiệp đến người tiêu dùng],...Những hành vi này vượt ra ngoài hoạt động Internet đơn giản.[5]
Năng lực ảnh hưởng của công dân kỹ thuật số trên nền tảng kỹ thuật số trong từng giai đoạn ngày càng được nâng cao. Qua đó, công dân kỹ thuật số không chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận thông tin và tương tác đa chiều, tự tạo nội dung trên nền tảng kỹ thuật số mà còn có thể thực hiện các chức năng quan trọng hơn, tham gia vào các hoạt động chính trị, xã hội và phát triển kinh doanh.
Với từng giai đoạn phát triển của kỹ thuật số thì ảnh hưởng và cách thức tương tác của công dân kỹ thuật số trên nền tảng số cũng khác nhau:
- Giai đoạn Web 1.0 [1997-2005]: Đây là trang web tĩnh và công dân kỹ thuật số ở dạng bị động trên nền tảng kỹ thuật số và không thể tạo ra nội dung. Họ chỉ đọc thông tin, không thể đăng tải, chỉnh sửa nội dung khác, không thể tham gia bình luận, đóng góp ý kiến hay đánh giá những thông tin này, họ cũng không thể tương tác với các công dân kỹ thuật số khác. Tốc độ kết nối internet chậm chạp và thế giới online, offline tách rời với nhau.[6]
- Giai đoạn Web 2.0 [2005-2009]: đây là trang web động, người dùng có thể tương tác được trên nền tảng kỹ thuật số. Mạng xã hội xuất hiện hình thành nên các mối quan hệ trên nền tảng kỹ thuật số và khả năng tương tác giữa các công dân kỹ thuật số dễ dàng hơn. Trong giai đoạn này, công dân kỹ thuật số có thể tự tạo profile, tương tác đa chiều với công dân kỹ thuật số khác. Tốc độ kết nối được cải thiện mạnh gấp 1000 lần so với giai đoạn được trước giúp khả năng truy cập được dễ dàng hơn.
Một số ứng dụng phần mềm khuyến khích sự tham gia đóng góp nội dung của công dân kỹ thuật số như:
- Mạng xã hội: Các trang web như Facebook hoặc Myspace giúp mọi người xây dựng hay tùy chỉnh hồ sơ cá nhân của riêng mình. Cộng đồng có sự tham gia của nhiều công dân kỹ thuật số khác giúp họ dễ dàng liên lạc và kết nối với nhau hơn. Họ còn có thể tự tạo ra nội dung trên nền tảng này và chia sẻ đến mọi người.
- Blogs: Các trang web giúp mọi người có thể chia sẻ những quan điểm, suy nghĩ, kiến thức và cập nhật những thông tin liên quan đến cuộc sống của họ trên nền tảng này.
- Wikis: Trang web wikipedia như một bách khoa toàn thư mở giúp mọi người trên toàn thế giới có thể cộng tác với nhau để tạo ra nội dung. Tuy nhiên, không như các trang mạng xã hội, nội dung trên nền tảng wiki cần tuân thủ một số nguyên tắc nghiêm ngặt để nội dung đảm bảo chất lượng, có độ chính xác cao và mọi người có thể sử dụng được.
- Các ứng dụng web, các phần mềm dưới dạng mã nguồn mở: Mã nguồn mở là những phần mềm được cung cấp dưới dạng mã và nguồn, không chỉ là miễn phí về giá mua mà chủ yếu là miễn phí về bản quyền. Người dùng có thể xem cách thức hoạt động của chương trình và thực hiện sửa đổi, cải tiến hoặc thậm chí xây dựng các ứng dụng mới dựa trên các chương trình trước đó.
- Giai đoạn Web 3.0 [2010+]: Web 3.0 được sử dụng Internet để thực hiện các kết nối thông tin và chia sẻ dữ liệu. Cấu trúc của web 3.0 hướng về con người nhiều hơn web 2.0.[7] Với sự phát triển của nhiều công cụ tìm kiếm và với sự tham gia đông đảo của nhiều người dùng khiến cộng đồng kỹ thuật số trở nên lớn mạnh, lượng thông tin và dữ liệu trên nền tảng kỹ thuật số là vô cùng lớn. Web 3.0 trở thành một cố vấn hiểu rõ người dùng nhờ sự tích hợp và đồng bộ dữ liệu trên nhiều kênh khác nhau, các công cụ tìm kiếm gần như hiểu người dùng hơn. Điều này giúp quá trình tìm kiếm thông tin của người dùng trên Internet dễ dàng, cá nhân hóa hơn cho từng đối tượng khác nhau và trả về đúng các thông tin liên quan đến những từ khóa được tìm kiếm. Với Web 3.0, người dùng sẽ có một hồ sơ cá nhân trên internet duy nhất được ghi nhận dựa trên quá trình hoạt động trên các trình duyệt. Web 3.0 sẽ sử dụng hồ sơ này để tùy chỉnh cho phù hợp với mỗi trường hợp riêng biệt. Điều đó có nghĩa rằng, nếu hai người khác nhau thực hiện một hành động tìm kiếm với cùng một từ khóa trên cùng một công cụ tìm kiếm thì họ sẽ nhận được các kết quả khác nhau dựa trên hồ sơ của mỗi người.[8]
- Giai đoạn Web 4.0: Hay còn gọi là web di động, xuất hiện nhiều thiết bị kỹ thuật số di động [Smartphone, tablet,...] nhờ đó mọi công dân kỹ thuật số có thể mang theo bên mình những thiết bị với tốc độ kết nối internet cực kỳ cao khiến họ dường như không thể tách rời giữa thế giới kỹ thuật số và thế giới thực. Ở giai đoạn này, mọi người có thể truy cập dịch vụ lưu trữ đám mây [cơ sở dữ liệu] trong không gian ảo thông qua Internet, tìm kiếm, truy xuất và quản lý dữ liệu.[9]
- Giai đoạn Web 5.0: Nói về sự tương tác [cảm xúc] giữa con người và thiết bị kỹ thuật số dựa trên trí tuệ nhân tạo. Sự tương tác này được thực hiện lặp đi lặp lại hàng ngày và trở thành thói quen của rất nhiều công dân kỹ thuật số. Web 5.0 còn dựa vào những dữ liệu sinh học [ví dụ như: thân nhiệt, nhịp tim, nhiệt độ, độ ẩm không khí,...], cảm xúc của con người [ví dụ như: vui, buồn, giận dữ,...] và khoa học về sinh học để phân tích hành vi của người dùng, từ đó giúp tối ưu hóa dữ liệu thu thập được, trong đó dữ liệu mà công nghệ AI thu thập vượt ra ngoài khả năng của con người. Xã hội 5.0 có sự kết hợp giữa không gian mạng và không gian vật lý, cho phép công nghệ AI dựa trên dữ liệu lớn và robot nhằm thực hiện và hỗ trợ người dùng trong công việc.Điều này giúp giải phóng con người khỏi những công việc phức tạp hoặc không đúng chuyên môn hàng ngày. Web 5.0 tạo ra những giá trị mới bằng cách cung cấp những sản phẩm và dịch vụ cần thiết cho những người dùng có nhu cầu, từ đó tối ưu hóa toàn bộ hệ thống xã hội và tổ chức.[10]
Thực trạng sử dụng nền tảng số của công dân kỹ thuật số toàn cầuSửa đổi
Internet ngày càng phổ biến và đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người hiện nay. Tính đến tháng 4 năm 2020, số lượng công dân kỹ thuật số trên toàn cầu đạt gần 4,57 tỷ người, chiếm 59% dân số toàn cầu.Trung Quốc, Ấn Độ và Hoa Kỳ đứng đầu về số lượng công dân số. Internet giúp kết nối hàng tỷ người trên toàn thế giới, internet là một yếu tố cốt lõi để phát triển xã hội hiện đại.Bắc Âu có 95% tổng dân số của khu vực truy cập internet, tỷ lệ đứng đầu trên toàn cầu.Các quốc gia có tỷ lệ thâm nhập internet cao nhất trên toàn thế giới là UAE, Đan Mạch và Hàn Quốc. Mặt khác, Triều Tiên có tỷ lệ dân số thâm nhập internet thấp trên toàn thế giới.[11]
Tính đến năm 2019, thời gian sử dụng mạng xã hội trung bình của công dân kỹ thuật số trên toàn thế giới lên tới 144 phút mỗi ngày, tỷ lệ sử dụng trên toàn cầu đạt 49%. Philippines là quốc gia có thời gian sử dụng mạng xã hội nhiều nhất với 233 phút/người/ngàyvà Đông Á là khu vực có tỷ lệ thâm nhập mạng xã hội 71%, đứng đầu bảng xếp hạng số lượng người sử dụng mạng xã hội trên toàn cầu.[12] Mọi người truy cập mạng xã hội vì nhiều lý do như tìm nội dung hài hước hoặc giải trí, chia sẻ ảnh và video, nhưng chủ yếu là để giữ liên lạc với bạn bè.[13]
Mạng xã hội có tác động lớn và đáng kể đến không chỉ các hoạt động trực tuyến mà cả hành vi ngoại tuyến và cuộc sống nói chung. Trong cuộc khảo sát người dùng trực tuyến toàn cầu vào tháng 2 năm 2019, phần lớn những người được hỏi cho rằng mạng xã hội đã tăng khả năng tiếp cận thông tin, dễ dàng kết nối và tự do ngôn luận.Tuy nhiên, họ cũng cảm thấy rằng mạng xã hội đã làm giảm đi sự riêng tư của họ, tăng sự phân cực trong chính trị và tăng sự phiền nhiễu thông tin hàng ngày.[14]
Thực trạng tham gia nền tảng số của thanh thiếu niênSửa đổi
Internet đã ngày càng phổ biến trong cuộc sống của những người trẻ tuổi. Điều này đã gây ra một số lo ngại về việc sử dụng internet có thể ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và sức khỏe của giới trẻ. Các trang web nhưMyspace và Facebook đã trở nên phổ biến với giới trẻ, đây là nơi họ tham gia và kết nối với những người khác trên internet. Một báo cáo cho thấy thanh thiếu niên dành tới chín giờ một ngày trên thế giới kỹ thuật số, với phần lớn thời gian đó dành cho các trang mạng xã hội và truy cập chủ yếu từ các thiết bị di động có sẵn khiến cho việc truy cập internetvới những người trẻ tuổi càng dễ dàng hơn.[15]
Các phát hiện dưới đây về hành vi sử dụng internet của thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 13 đến 17 được thực hiện bởi Trung tâm nghiên cứu Pew từ ngày 7 tháng 3 đến ngày 10 tháng 4 năm 2018.
Facebook không còn là mạng xã hội thanh thiếu niên sử dụng nhiều nhất
Hiện nay Facebook không còn là nền tảng trực tuyến được sử dụng nhiều nhất trong thanh thiếu niên. Thống kê cho thấy rằng thanh thiếu niên Hoa Kỳ sử dụng Facebook [51%] ít hơn so với các nền tảng khác như YouTube [85%], Instagram [72%] hoặc Snapchat [69%].
Thanh thiếu niên có nhiều quan điểm trái chiều về tác động của truyền thông xã hội đối với cuộc sống của họ
Thanh thiếu niên có nhiều quan điểm về tác động cuối cùng của những nền tảng này đối với họ.Một số lượng lớn thanh thiếu niên [45%] tin rằng mạng xã hội không có tác động tích cực cũng như tiêu cực.Trong khi đó, khoảng 31% nói rằng mạng xã hội đã có tác động chủ yếu tích cực như giúp họ giữ liên lạc, tương tác và kết nối với những người mới, truy cập dễ dàng tin tức và thông tin, kết nối với những người có chung sở thích, một công cụ giải trí tốt, cung cấp không gian để thể hiện bản thân hoặc cho phép thanh thiếu niên nhận được những hỗ trợ từ người khác hoặc tìm hiểu những điều mới trong cộng đồng.
Trong số 24% thanh thiếu niên cho rằng mạng xã hội có tác động tiêu cực đến cuộc sống của họ, lý do hàng đầu được nêu ra là: mạng xã hội đã dẫn đến nhiều vụ bắt nạt hơn và sự lan truyền nhanh chóng của tin đồn tiêu cực. Và 17% số người được hỏi cảm thấy các nền tảng này gây tổn hại đến các mối quan hệ và dẫn đến việc hạn chế tương tác với nhau của con người.Những chia sẻ tương tự cho rằng mạng xã hội mang đến cho thanh thiếu niên cái nhìn không thực tế về cuộc sống của người khác [15%] hoặc thanh thiếu niên dành quá nhiều thời gian cho mạng xã hội [14%]. 12% khác chỉ trích mạng thông xã hội vì đã gây ảnh hưởng đến thanh thiếu niên khiến họ chịu áp lực bị so sánh với người khác và dẫn đến các vấn đề tâm lý.
Phần lớn thanh thiếu niên có quyền truy cập internet vào máy tính ở nhà hoặc điện thoại thông minh
Việc sở hữu điện thoại thông minh gần như phổ biến trong thanh thiếu niên, 95% thanh thiếu niên hiện nay cho biết họ có hoặc có quyền truy cập internet vào điện thoại thông minh. Trong khi 88% thanh thiếu niên cho rằng họ có quyền truy cập internet vào máy tính để bàn hoặc máy tính xách tay ở nhà, quyền truy cập internet này cũng thay đổi rất nhiều theo mức thu nhập. Khoảng 96% thanh thiếu niên có quyền truy cập internet vào máy tính tại nhà từ các hộ gia đình có thu nhập hàng năm từ 75.000 đô la trở lên, nhưng tỷ lệ đó là khoảng 75% đối với những thanh thiếu niên đến từ các hộ gia đình kiếm được dưới 30.000 đô la một năm.
Khả năng truy cập máy tính của thanh thiếu niên cũng thay đổi theo trình độ học vấn của các bậc cha mẹ.Phần lớn thanh thiếu niên có cha mẹ có bằng cử nhân trở lên có quyền truy cập internet vào máy tính hơn [chiếm 94%] so với thanh thiếu niên có cha mẹ có bằng tốt nghiệp trung học trở xuống [chiếm 78%].
Tần suất sử dụng internet của thanh thiếu niên ngày càng tăng
Khoảng 45% thanh thiếu niên nói rằng họ sử dụng internet gần như liên tục, 44% khác nói rằng họ lên mạng nhiều lần trong ngày, nghĩa là khoảng chín trong mười thanh thiếu niên cho rằng họ lên mạng nhiều lần mỗi ngày.
Có một số khác biệt về tần suất sử dụng internet của thanh thiếu niên theo giới tính, cũng như chủng tộc và sắc tộc.Khoảng 50% nữ thanh thiếu niên là người dùng trực tuyến liên tục, và tỷ lệ này là 39% đối với nam thanh thiếu niên.
Phần lớn cả nam và nữ thanh thiếu niên đều chơi trò chơi điện tử, nhưng phổ biến hơn đối với nam
Nhìn chung, 84% thanh thiếu niên nói rằng họ có quyền chơi trò chơi điện tử ở nhà và 90% cho biết họ chơi trên nhiều thiết bị: máy tính, bảng điều khiển trò chơi hoặc điện thoại di động.
Khoảng 75% các nữ thanh thiếu niên cho rằng họ có quyền truy cập vào bảng điều khiển trò chơi ở nhà và 83% cho rằng họ chơi trò chơi video trên nhiều thiết bị điện tử. Trong khi đó, khoảng 92% các nam thanh thiếu niên cho rằng họ có hoặc có quyền truy cập vào bảng điều khiển trò chơi ở nhà và 97% cho biết họ chơi trò chơi video trên nhiều thiết bị khác nhau.[16]
Trong cuốn sách "Digital Citizenship in Schools", Mike Ribble và Gerald Bailey nói về cách công nghệ ảnh hưởng đến cách mọi người tương tác và khái niệm công dân kỹ thuật số trong. Các tác giả nêu ra chín yếu tố của công dân kỹ thuật số. Chín yếu tố này giúp xác định cách sử dụng công nghệ tốt nhất cho mọi công dân kỹ thuật số. Ngoài ra, mỗi công dân kỹ thuật số hiểu và thực hiện các yếu tố này còn để mỗi người:
- Lãnh đạo và hỗ trợ người khác xây dựng trải nghiệm kỹ thuật số tích cực.
- Nhận ra rằng hành động của mỗi cá nhân chúng ta có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến người khác.
- Tham gia môi trường kỹ thuật số vì lợi ích chung, lợi ích tốt đẹp.[17]
Chín yếu tố của công dân kỹ thuật số
Chín yếu tố của công dân kỹ thuật số không độc lập màliên quan với nhau theo nhiều cách. Chín yếu tố đó được phân loại thành ba nguyên tắc được gọi tắt là REP: tôn trọng [Respect], giáo dục [Educate] và bảo vệ [Protect].[31] Ba nguyên tắc này được Mark Ribble phát triển để hướng dẫn người dùng kỹ thuật số biết được quyền và cách sử dụng công nghệ có trách nhiệm để trở thành công dân kỹ thuật số tốt.
- Tôn trọng: tượng trưng cho sự tôn trọng bản thân và người khác, nó bao gồm các yếu tố được sử dụng để tôn trọng người dùng kỹ thuật số khác:
- Nghi thức: cần hiểu cách sử dụng công nghệ của họ ảnh hưởng như thế nào đến người khác.
- Truy cập: Không phải ai cũng có cơ hội sử dụng kỹ thuật số như nhau, cho dù vấn đề là vật chất, kinh tế xã hội hay địa điểm. Những người có quyền truy cập nhiều hơn vào công nghệ cần giúp đỡ những người không có.
- Pháp luật: Việc dễ dàng sử dụng các công cụ trực tuyến đã cho phép một số người ăn cắp, quấy rối và gây ra vấn đề cho người khác. Người dùng cần biết họ không thể lấy nội dung mà không được phép hoặc ít nhất là phải cung cấp tín dụng cho những người đã tạo ra nội dung đó.
- Giáo dục: là giáo dục bản thân và cả giáo dục người khác, bao gồm các yếu tố được dùng để tìm hiểu về cách sử dụng phù hợp của thế giới kỹ thuật số
- Trình độ học vấn: người dùng công nghệ phải nhận thức được các thay đổi và sẵn sàng khám phá các tài nguyên mới, họ cần được dạy và có ý thức tự học hỏi cách sử dụng công nghệ mới mọi lúc, mọi nơi một cách nhanh chóng và phù hợp.
- Giao tiếp: Sử dụng email, văn bản hoặc phương tiện truyền thông xã hội có thể không phải là phương pháp tốt nhất để tương tác với ai đó.Mỗi chúng ta cần suy nghĩ về nội dung trước, sau đó là phương pháp, cách thức và đối tượng giao tiếp phù hợp.
- Thương mại: Công nghệ cho phép chúng ta mua và bán trên toàn cầu nhưng nên cẩn thận về việc chia sẻ thông tin cá nhân và thẻ tín dụng bởi vì thương mại trực tuyến luôn đi kèm với rủi ro.
- Bảo vệ: bảo vệ bản thân và bảo vệ người khác bao gồm các yếu tố được sử dụng để duy trì an toàn trong thế giới kỹ thuật số và phi kỹ thuật số.
- Quyền lợi và trách nhiệm: Các thành viên cộng đồng trực tuyến có quyền riêng tư, tự do ngôn luận và giao tiếp, nhưng các quyền này không được can thiệp vào quyền của người khác. Trách nhiệm của mỗi người là tôn trọng quyền của người khác.
- Bảo mật: Mọi người có trách nhiệm bảo vệ các công cụ và dữ liệu của mình bằng cách sử dụng phần mềm và ứng dụng bảo vệ chúng khỏi những kẻ xâm nhập trực tuyến.Khi tất cả chúng ta được kết nối với nhau thì mỗi người đều có trách nhiệm bảo mật thông tin.
- Sức khỏe và giữ gìn sức khỏe: Cần phải có sự cân bằng giữa thế giới trực tuyến và thế giới thực. Chúng ta nên thiết lập giới hạn thời gian sử dụng công nghệ và dành thời gian nhiều hơn với bạn bè và gia đình.[32][33]
Trong những năm qua, đã có một sự thay đổi lớn, người dùng chuyển từ công dân kỹ thuật số sang lãnh đạo kỹ thuật số và tạo ra tác động lớn hơn đối với các tương tác trực tuyến. Công dân kỹ thuật số tiếp cận theo cách có trách nhiệm và đạo đức nhưng vẫn còn thụ động, tuy nhiên lãnh đạo kỹ thuật số lại có cách tiếp cận chủ động hơn, bao gồm "sử dụng internet và phương tiện truyền thông xã hội để cải thiện chất lượng cuộc sống của mình và người khác" như một phần của cuộc sống hàng ngày.[34]
Một số nhà phê bình nói rằng: Giống như sự đồng cảm có thể được lan truyền đến một số lượng lớn các cá nhân thì sự thù hận cũng vậy. Mặc dù Liên Hợp Quốc và các nhóm cộng đồng đã thành lập các mặt trận chống lại phát ngôn thù hận, nhưng không có định nghĩa pháp lý nào về ngôn từ kích động thù địch được sử dụng trên phạm vi quốc tế và cần phải nghiên cứu thêm về tác động của nó.[35]
Các xu hướng và mục tiêu của giáo dục công dân kỹ thuật số bao gồm: Dấu chân kỹ thuật số; Kiến thức kỹ thuật số; Hiểu biết thông tin; Bản quyền, tôn trọng sở hữu trí tuệ, sự ghi nhận; Sức khỏe và giữ gìn sức khỏe; Trao quyền phát ngôn cho công dân; An toàn, bảo mật và quyền riêng tư; Giáo dục tính cách, đạo đức; Nuôi dạy thế hệ tương lai. Những mục tiêu này được phân chia thành nội dung của các kỹ năng cần thiết, văn hóa ứng xử và khả năng bảo vệ an toàn trên nền tảng kỹ thuật số mà mỗi công dân kỹ thuật số cần phải học hỏi và đạt được.
Những kỹ năng cần thiết của công dân kỹ thuật số [36]Sửa đổi
Công dân kỹ thuật số trong thời đại công nghệ phát triển hiện nay cần rất nhiều kỹ năng cần thiết để thực hiện các hoạt động hiệu quả trên nền tảng kỹ thuật số. Dựa trên nghiên cứu và đánh giá của DQ Institute, danh tính kỹ thuật số, quản lý thời gian tiếp xúc với màn hình, quản lý bắt nạt trên mạng, quản lý an ninh mạng, quản lý bảo mật, tư duy phê phán, dấu chân kỹ thuật số và cảm thông kỹ thuật số là 8 kỹ năng cần thiết mà mỗi công dân cần phải có.[37]
- Danh tính công dân kỹ thuật số
- Quản lý thời gian tiếp xúc với màn hình
- Quản lý bắt nạt trên mạng
- Quản lý an ninh mạng
- Quản lý bảo mật
- Tư duy phản biện
- Dấu chân điện tử
- Đồng cảm kỹ thuật số
Văn hóa ứng xử[50]Sửa đổi
- Tôn trọng và có trách nhiệm với bản thân
- Tôn trọng và có trách nhiệm với người khác
- Tôn trọng và có trách nhiệm với tài sản
An toàn trên nền tảng kỹ thuật sốSửa đổi
Trong môi trường kỹ thuật số, các thông tin được đông đảo người dùng chia sẻ với nhiều chủ đề đa dạng trong cuộc sống. Khi tham gia vào môi trường này, chúng ta có thể có được nhiều thông tin bổ ích đồng thời chia sẻ lên thông tin của cá nhân. Tuy nhiên, mỗi công dân kỹ thuật số cần đề cao cảnh giác với các mối nguy hại tiềm ẩn xung quanh quyền riêng tư. Các nguy cơ lộ thông tin danh tính, bí mật tài sản hay bị hacker tấn công thông tin của người dùng,… và các thông tin này có thể bị kẻ xấu lợi dụng với mục đích xấu bất cứ lúc nào.[52]
Để bảo vệ chính mình an toàn trên nền tảng kỹ thuật số, công dân kỹ thuật số cần cẩn thận trong quá trình hoạt động trên môi trường trực tuyến, tăng cường biện pháp bảo mật như tạo mật khẩu bảo vệ mạnh mẽ, xây dựng tường lửa, cài đặt các phần mềm chống virus,….[53]
- Thời đại thông tin
- Xã hội thông tin
- An ninh mạng
- Tấn công phi kỹ thuật
- An toàn thông tin
- ^ “What is Digital Citizenship”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Digital Citizenship”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Digital Community, Digital Citizen”. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2020.
- ^ “What is digital citizen?”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Most Popular Internet Activities”. 22 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2020.
- ^ “What is web 1.0| IGI Global”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “5 main features of web 3.0”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “World wide web and its journey from web 1.0 to web 4.0” [PDF]. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Evolution of the world wide web: from web 1.0 to web 4.0” [PDF]. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Web 5.0”. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Global digital population as of April 2020[in billions]”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Daily social media usage worldwide”.
- ^ “World Internet Users Statistic and 2020 World Population Stats”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Daily time spent on social networking by internet users worldwide from 2012 to 2019[in minutes]”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Teens Spend 'Astounding' Nine Hours a Day in Front of Screens: Researchers”. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Teens, Social Media & Technology 2018| Pew Research Center”. 31 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Nine Elements”. Digital Citizenship. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2020.
- ^ “What Does It Mean To Have Digital Access?”. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Digital Citizenship in Schools” [PDF]. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 23 tháng 7 năm 2020.
- ^ “What is Digital Access”. IGI Global. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Definition of Digital Commerce”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 12 năm 2019.
- ^ “What is Digital Communication and How is it Related to Education?”. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Digital Literacy Unpacked”. cambridge.org.
- ^ “Digital Literacy - kỹ năng cần thiết trong thời đại 4.0 bốn chấm không”. 25 tháng 12 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2020.
- ^ “Young Citizens in the Digital Age: Political Engagement, Young People and New Media”.
- ^ “Digital Law - Digital Citizenship”. Digitalhawks. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2020.
- ^ “What Does it Mean to be a Digital Citizen?”. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Digital Health and Wellness - Definition”. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Digital Health & Wellness”. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Nine Elements of Digital Citizenship - Mike Ribble - Choraltech”. wordpress.com.
- ^ “Digital Citizenship: Respect, Protect, Educate”. 7 tháng 10 năm 2019.
- ^ “Digital citizenship is more important than ever”.
- ^ “Essential elements of digital citizenship”. ISTE. 22 tháng 1 năm 2020.
- ^ “Moving Students From Digital Citizenship To Digital Leadership”. TeachThought. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
- ^ “United Nations Strategy and Plan of Action on Hate Speech” [PDF].
- ^ “DQ Global Standards Report 2019 Common Framework for Digital Literacy, Skills and Readiness” [PDF]. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020. line feed character trong |tựa đề= tại ký tự số 32 [trợ giúp]
- ^ “8 kỹ năng cần thiết của công dân số”. Kynangso. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020.
- ^ “What is Identity Theft?”. debt.org. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ “The Effects too Much Screen Time has on Your Health”. //www.carewellurgentcare.com/. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020. Liên kết ngoài trong |website= [trợ giúp]
- ^ “ĐịNh Nghĩa Bắt nạt trên mạng”. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Cyberbullying”. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2020.
- ^ “WHAT IS CYBER-BULLYING?”. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Report Cyberbullying”. stopbullying.gov. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ “5 Cybersecurity Threats to Be Aware of in 2020”. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Privacy management program” [PDF]. www.privacy.gov.ph.
- ^ “Critical thinking”. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Your Digital Footprint Matters”. internetsociety.org. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Digital footprints”. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Developing Digital Empathy: A Holistic Approach to Media Literacy Research Methods”. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ “Digital Citizenship Primary School Agreement” [PDF]. globaldigitalcitizen.org. Truy cập ngày 25 tháng 5 năm 2020. line feed character trong |tựa đề= tại ký tự số 20 [trợ giúp]
- ^ “Sở hữu trí tuệ và những điều cần biết”. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
- ^ Elana Pearl Ben-Joseph. “Online Safety”. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2020.
- ^ “5 security measures that experts follow”. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2020.
Một số bài báo về một nhóm quyền kỹ thuật số ở Anh, Báo BBC News, ngày 9 tháng 9 năm 2005.
Giáo dục trẻ em trở thành công dân kỹ thuật số tốt
Giao lưu trực tuyến: Ứng xử của giới trẻ trên mạng xã hội, Bộ Tư Pháp, ngày 5 tháng 11 năm 2019.
Làm thế nào để trở thành một công dân số có trách nhiệm, Báo Pháp luật và xã hội, ngày 20 tháng 3 năm 2019.
Giới trẻ có nguy cơ cao vướng bệnh trầm cảm do nghiện Facebook, Bệnh viện Bạch Mai, ngày 21 tháng 5 năm 2019.
Cách mạng xã hội ảnh hưởng đến thanh thiếu niên và bố mẹ giáo dục trẻ Child Mind Institute, Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2020