So sánh ba bài thơ thu của nguyễn khuyến năm 2024

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến là bức tranh đầy hơi thở của cảnh ngột ngạt, vắng lặng, hư ảo, tàn tạ, thụ động.

Trạng thái ngột ngạt được mô tả qua các hình ảnh của những không gian eo hẹp, tăm tối, cô lẻ. Đó có thể là ao, nhà, ngõ... Điều này tạo nên những không gian khác biệt so với văn chương trung đại truyền thống, thường ưa chuộng những bối cảnh rộng lớn của trời biển, núi sông, đặt con người vào bối cảnh vĩ đại của vũ trụ để thể hiện lòng anh hùng 'dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi' (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Nguyễn Khuyến, tuy ngược lại, mở bài Thu điếu với hình ảnh của một chiếc ao bé nhỏ:

Bên bờ ao, lạnh buốt, nước trong xanh biếc

Cái ao nhỏ bé, quây quần, giữa tầm nhìn

Mùa thu đọng lại, bức tranh câm lặng và thu nhỏ

Con thuyền câu mỏng manh nhưng tận cùng hồn đan xen.

Trên đỉnh ao nhỏ, một thuyền nhỏ xuất hiện. 'Một' và 'tẻo teo' khiến thuyền trở nên siêu nhỏ, như một chấm đen trên bức tranh của mùa thu.

Ngôi nhà năm gian le te, đêm sâu ngõ tối. Tính từ 'thấp le te' làm nổi bật sự nhỏ bé của ngôi nhà truyền thống, còn 'ngõ tối' làm tăng thêm không khí hẹp hòi, u tối.

Ngôi nhà truyền thống năm gian thấp le te, ngõ tối đêm sâu. Không gian nhỏ nhắn, tối tăm làm nổi bật cảm giác hư ảo, tàn tạ, và thụ động của cảnh thơ.

Bầu trời xanh ngắt hiện diện trong ba bài thơ, tạo nên cảm giác hư ảo, tàn tạ, và thụ động trong không gian bao la của bản đồ Bắc Bộ.

- Mây trắng bồng bềnh trên bầu trời xanh ngắt, Ngõ trúc uốn quanh co, mờ mịt khách vắng teo. (Thu điếu)

- Da trời ai nhuộm màu xanh ngắt như ngọc, Mắt lão không vầy nhưng cũng đỏ hoe như lửa. (Thu ẩm)

- Trời thu cao quang đãi màu xanh ngắt, Cành trúc lơ phơ, gió hắt hiu nhẹ nhàng.(Thu vịnh)

Hình ảnh trời xanh ngắt là biểu tượng của mùa thu Bắc Bộ, một bức tranh thanh khiết và tràn đầy hoà bình. Tuy nhiên, trong văn chương trung đại, nó còn là sức mạnh siêu nhiên chi phối mọi biến cố, gợi lên nỗi đau đớn, cay đắng, và sự bế tắc của con người trước vẻ đẹp tuyệt vời nhưng đầy ẩn ý của trời xanh.

Xanh thẫm nở rộ khắp mọi nơi, Được tạo nên bởi bàn tay tài năng, điều gì đã làm nên điều này? (Chinh phụ ngâm khúc - Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm)

Màu xanh trong văn chương cũng như là biểu tượng của sự vô cùng, vô tận, và đôi khi là khắc nghiệt của thiên nhiên. Khi mà màu xanh hiện diện, nó thường đồng nghĩa với những nỗi đau buồn và tang thương trải dài:

Trăm năm trôi qua chẳng là gì cả, Chỉ một nấm cỏ xanh rì trên cổ xưa. (Cung oán ngâm khúc - Nguyễn Gia Thiều)

Sau này, thơ của Vũ Hoàng Chương (1916-1976) cũng mang đậm màu xanh của sự suy tư và triết lý trong hai câu thơ như sau:

Từ lúc Trái Đất chia phôi đi, Lệ đã xanh rì, như trùng dương. (Nhịp trúc mùa thơ)

Những bức tranh xanh trời, xanh biển, xanh cây, xanh mồ... khiến con người rơi vào sự kinh ngạc! Chúng là biểu tượng của sự cao vĩ, thời gian không ngừng trôi, và sự sống mãi mãi của cây cỏ... Chúng tồn tại tự nhiên, đối diện với sự giới hạn, sự suy tàn của con người. Trước vẻ đẹp nghẹt thở của màu xanh ấy, con người trở nên nhạy cảm trước sự lạnh lùng của thiên nhiên đối với nỗi đau của mình!

Quay trở lại với ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến. Bầu trời xanh đã làm nổi bật sự hữu hạn, bé nhỏ của mọi thứ, đặc biệt là con người. Hơn nữa, dưới bức tranh xanh ngắt, mọi sự vật, hiện tượng liên tục diễn ra, thể hiện sự thụ động, tàn tạ, và hư ảo.

Cái hư ảo, tàn tạ đầu tiên được thấy qua thời gian trong ba bài thơ thu. Cả ba bài thơ đều lựa chọn bối cảnh là chiều và tối của mùa thu. Người trung đại thường phân biệt rõ ràng giữa thời gian âm và dương (âm là mùa thu, buổi chiều tối; dương là mùa xuân, mùa hạ; buổi sáng, buổi trưa...). Nguyễn Khuyến đặt thời gian âm trong ngày vào thời gian âm của mùa thu. Chiều thu của bài Thu vịnh. Sau đó là chiều và đêm liên tiếp xuất hiện trong Thu ẩm, Thu điếu. Chỉ khác là có trăng (Hòa vào ánh trăng; Ao dài nước trong nhòe bóng trăng) hoặc chỉ có màu đen tối dày đặc che phủ, bao bọc ngôi làng (Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè)... Thời gian chiều tối này gợi nhớ về sự suy tàn. Đi kèm với sự suy tàn là hư ảo (luôn biến đổi, chuyển từ dạng này sang dạng khác một cách nhanh chóng). Trong khoảnh khắc suy tàn, hư ảo của chiều tối mùa thu đó, những hình ảnh khác nhau xuất hiện liên tục trong ngữ cảnh với nó. Đó là cảnh cần trúc trong Thu vịnh:

Cành trúc mảnh mai, đón gió mát

Dưới nắng vàng, cảnh lá vàng rơi nhè nhẹ

Những chiếc lá vàng như tình yêu phai mờ

Chiếc cần trúc mảnh mai, lá vàng bên gió, hình ảnh này không chỉ là sự tàn tạ của thời gian mà còn là biểu tượng cho sự hư ảo - sự kết thúc của cuộc sống!

Dòng thời gian xoay vần, hình ảnh tầng mây, sóng nước, ánh trăng và khói nhạt trở nên hư ảo, thay đổi không ngừng

Chùm hoa năm ngoái và tiếng ngỗng trên trời đều trở thành những biểu tượng của sự mơ hồ, vô tri trong tâm tưởng nhân vật trữ tình

Thời gian và không gian chìm đắm trong tâm thái chơi vơi, chới với, mơ hồ của người trải lời

Cảnh thơ với tâm trạng tàn lụi, hư ảo không chỉ là một trạng thái mà còn là sự vụng trộm, chìm đắm, bất lực của nhân vật trước sự thay đổi của thế giới xung quanh

Những con sóng biếc nhẹ nhàng theo hơi gợn, lá vàng phải đưa mình bay vèo trước gió. Tầng mây nhẹ lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt, trong khi cá đâu đớp động dưới chân bèo.

Với sự thụ động của sóng, lá, mây, và cá, bức tranh thu của Nguyễn Khuyến trở nên như một chiếc gương phản ánh sự không chủ động, vô tri của cuộc sống. Mọi thứ trôi nổi và lênh đênh theo dòng chảy tự nhiên, không có sức mạnh để kiểm soát hay thay đổi. Tính thụ động này làm nổi bật tình cảm ngột ngạt, hư ảo, và tàn tạ.

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến như những bức tranh đa chiều, mời gọi người đọc nhìn vào một không gian thơ mộng, nhưng cũng chứa đựng sự ngột ngạt, vắng lặng, hư ảo, và tàn tạ. Sự đối lập giữa vẻ đẹp và sự sợ hãi của cảnh vật tạo nên một trải nghiệm độc đáo.

Để nắm rõ hơn về phần Phong cách ngôn ngữ báo chí, hãy đọc kỹ và hiểu rõ nội dung trong bài học.

Chuẩn bị cho bài học sắp tới với phần Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia để vững kiến thức Ngữ Văn 11.

2. Sự thương tâm của cuộc sống cô đơn, uổng nhiệt

Văn chương thời trung đại thường mô tả cảnh ngụ tình, và hình ảnh của cảnh vật thường biểu hiện cái nhỏ bé, hư ảo, thụ động, tương ứng với số phận nhỏ bé, hư ảo, và thụ động của con người. Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến lấy điển tích để thể hiện sự già nua, rơi rụng, và cô đơn giữa cảnh tàn, thời tàn, và đời tàn. Hãy nhìn nhận bài thơ từ góc độ văn chương trung đại để hiểu rõ hơn về ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh thơ.

Nguyễn Khuyến viết ba bài thơ thu vào cuối thế kỉ XIX khi quê hương tan hoang. Ông, người đoạt Tam nguyên, ba lần đỗ đầu cả thi Hương, thi Hội, và thi Đình, lại trở thành kẻ bất lực, vô nghĩa trước thời cuộc. Ba bài thơ thu của ông thấu hiểu nỗi đau của một tài năng hiện danh bị vô nghĩa giữa thời đại uổng nhiệt.

Khởi đầu là nỗi lẻ loi đau thương. Nỗi đau này hiện hình qua nhiều bức tranh: chiếc thuyền, căn nhà, đường ngõ...

- Một chiếc thuyền câu bé tỏ ra yếu đuối - Năm gian nhà cỏ thấp le te - Ngõ trúc quanh co khách bóng bỏ đi - Ngõ tối đêm sâu đóm lập loè

Chỉ một chiếc thuyền, năm gian nhà. 'Một' - ký hiệu cho sự độc nhất - chiếc thuyền đơn độc, nhỏ bé! 'Năm' - mặc dù có vẻ đa dạng, nhưng chỉ là của một ngôi nhà nhỏ! Chiếc thuyền, nhà cỏ đại diện cho không gian cá nhân. Thế giới người đều mở ra qua con ngõ. Nhưng 'ngõ' đôi khi chỉ sẵn có một màu tối, lúc khác lại vắng teo! Nghĩa là vắng tăm, trống rỗng, không bóng người. Hình ảnh thơ thay đổi cách miêu tả thế giới con người. Từ 'một chiếc thuyền câu', 'năm gian nhà cỏ' - thể hiện sự cá nhân và mở rộng thế giới với 'ngõ' - lối đi của nhiều người, nhưng số 'một', số 'năm' chuyển sang trạng thái 'vắng teo'. Điều này làm cho sự cô đơn đạt đến mức tuyệt đối! Nó đẩy con người, trên chiếc thuyền, trong căn nhà, vào sự cô đơn hiện tại.

Có điều đáng chú ý, trong văn chương trung đại, trúc thường là biểu tượng cho tầng lớp quân tử. Ngõ trúc vắng khách có nghĩa là thế giới quân tử anh hùng không còn ai. Điều này có thể khẳng định. Vì, những hình ảnh tượng trưng như trúc, cúc, mai, thường rực rỡ, tươi mới, đẹp đẽ trong thơ Nguyễn Trãi, lại trở thành mờ nhạt, không rõ trong thơ Nguyễn Khuyến. Trúc trong thơ ông đồng loạt vắng teo (Ngõ trúc quanh co khách vắng teo), lơ phơ (Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu). Nó khiến người đọc liên tưởng đến bức tranh quân tử phai nhạt, không còn nét 'quân tử cố cùng'! Cô đơn giữa hiện tại, nhân vật trữ tình tìm kiếm kết nối với quá khứ trong bài Thu vịnh. Nhưng:

Nhúc nhích, lòng càng trăn trở Lặng lẽ ngẫm nghĩ, bút chưa rời.

Dường như không thể giữ gìn tình cũ! Như không thể hòa mình vào sự đồng điệu của hiện tại và quá khứ. Hình ảnh con người lạc lõng, cô đơn đến cùng. Bạn thân chỉ còn lại cách giải sầu qua chén rượu, nhưng điều dở dang là:

Rượu có vị ngon, có vị đắng, Uống năm ba chén đã say sưa.

Lẻ loi, bi ai nhất là hình ảnh người đơn độc trên chiếc thuyền bé giữa đám ao nhỏ:

Ôm đầu gối, chìm đắm trong hư vô, Cá đâu dám khám phá dưới chân bèo.

Hình ảnh này là một hiện thực đối lập với câu chuyện Lã Vọng câu cá. Khương Tử Nha - Lã Vọng trong bối cảnh thế giới điên đảo, ông lựa chọn sống ẩn dật, đắp đổi để đợi thời cơ. Lã Vọng của thơ Nguyễn Khuyến lại câu cá trong mùa thu lá vàng - biểu tượng cho sự tàn lụi, cô đơn, và vô vọng. Cảnh câu cá của ông trở nên bi thảm, không khác gì cuộc đời hạn hẹp giữa những khó khăn; đơn độc giữa sự lặng lẽ và bất lực. Nguyễn Khuyến vẽ lên hình ảnh của một nhà văn bất lực trước thời cuộc.

Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, như Lã Vọng, cũng câu cá. Nhưng câu cá trong mùa thu lá vàng - thời điểm thịnh trị đã chấm dứt. Ông câu cá trong sự cô đơn, vô vọng, và đau đớn. Những hình ảnh kết hợp tạo nên bức tranh của một nhà văn bất lực đối diện với thực tế và không rõ tương lai. Hình ảnh đã mất đi khí phách của nhân vật chính trong văn học trung đại, thay vào đó là sự buồn bã, chìm đắm trong tận cùng của bản thân.

Dù đã trở thành huyền thoại, Đâu có danh tiếng gì với núi sông? (Tự doanh thuỷ triều - Nguyễn Công Trứ)

Chí lực cùng kiệt sức, Tam nguyên Yên Đổ bước vào khung cảnh buồn bã, âm u; chìm đắm trong rượu mà không giải toả được nỗi buồn; tìm kiếm người, nhưng thất bại, trở nên cô đơn và thẹn thùng trước quá khứ. Trong cảnh bức tranh này, không ai làm bạn cùng cảm; nhìn nhận về bản thân, ông nhận thức mình như chiếc lá vàng rơi giữa thế giới, giữa thời đại... Tất cả đẩy Tam nguyên Yên Đổ đến đau đớn đến nỗi không tả. Nhìn hoa, ông nghĩ về hoa năm ngoái, nghe tiếng chim hỏi gió trên cao mà tự hỏi:

Nhiều đóa hoa nở năm ngoái, Một giọng hỏi cao trên bầu trời?

đến từ quá khứ đẹp đẽ của bản thân và đất nước đã trở thành cảnh đen tối của một đất nước nô lệ và bi đát. Không có ngỗng nước, vì mọi thứ trên đất nước này đều thuộc về giặc. Trời đất không còn là của ta, thảo lư và mọi sự tồn tại đều thuộc về kẻ thù. Câu thơ là tiếng than thở thất thường của một trí thức mất nước!

Trong ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, có sự hòa quyện của nhiều điển tích, điển cố: thi đề mùa thu, Đào Tiềm ẩn mình, Lã Vọng câu cá, lều cỏ Khổng Minh (thảo lư), rồi mộc, diệp, hoa, điểu, tửu... Từ những câu thơ như:

- Đồng quốc đều khôn ngoan, Mùa thu hiển hiện khắp nơi.

(Một chiếc lá vàng rơi, Thiên hạ hòa mình trong mùa thu)

(Trích từ Sách Quảng Quần Phương)

- Hương hoa lưu lại lưu luyến, Lòng kinh biệt hận kẽ tâm.

(Hoa rơi cảm xúc dư thừa, Li biệt, chim khóc nát tâm hồn) (Xuân Vọng - Đỗ Phủ)

Nguyễn Khuyến đã biến đối văn hóa Hán lâm tới mức gần như làm mất đi nhận diện của chúng. Cùng lúc, ông đã lật ngược một số biểu tượng, biến chúng thành hoàn toàn mới về ý nghĩa so với nguyên bản. Hình ảnh Lã Vọng câu cá trong yên bình và tin tưởng đã trở thành một người câu cá trong tuyệt vọng và mất niềm tin. Lều cỏ thơ mộng giữa rừng của Khổng Minh bây giờ là một ngôi nhà cỏ tối tăm giữa khu phố u ám. Biểu tượng trúc, thường thấy là mạnh mẽ và đẹp đẽ, giờ đây trở thành hình ảnh yếu đuối và lơ phơ... Điều này tạo nên một cái nhìn mỉa mai, châm biếm trong cả ba bài thơ thu!

Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến tổng hợp nhiều nỗi đau ông đã chia sẻ trước đó. Đó là nỗi đau của sự cô đơn, chiều chiều cuộc đời:

Cuộc sống hỗn loạn như loài hạc cô độc, Bóng hình tuổi già như mây trôi. (Cảm Hứng)

Đau đớn vì mất nước: Máu chảy ngày hè, cảnh đêm vắng, Bóng nguyệt tan hồn, sầu sửng sốt. (Hồi ức quê hương)

Xấu hổ trước danh vọng, bằng cấp đỉnh cao nhưng bất lực, vô ích:

- Tự nhủ rằng thật sự đáng kinh tởm, Bảng vàng bia xanh, thế giới cao sang. (Trải lòng)

- Sách vở ít ích trong buổi họp, Xiêm áo thêm thấp thỏm và thẹn thùng... (Lời dặn dò cho thế hệ trẻ)

Nguyễn Khuyến đã mô tả mức độ thảm hại của cá nhân mình một cách đầy biểu cảm. Ông sử dụng những hình ảnh quen thuộc như thi đề mùa thu, trời xanh, lá vàng, hoa, điểu... cùng với bối cảnh đồng bằng Bắc Bộ như ao, nhà, ngõ... và sự khéo léo vận dụng ngôn ngữ tiếng Việt để truyền đạt nỗi đau đau đớn khó diễn đạt. Không chỉ ở chỗ sáng tạo sử dụng thi liệu truyền thống mà Nguyễn Khuyến còn giữ cho ngôn từ tránh xa những từ ngột ngạt, bế tắc, đau đớn... mà vẫn chứng tỏ nỗi tê tái đau lòng qua từng chữ, từng hình ảnh thơ! Nỗi đau, sầu bi thấu hiểu trong cả ba bài thơ làm nổi bật hình ảnh một Tam nguyên Yên Đổ đau khổ, đầy cay đắng trước số phận của mình và thời đại!

3. Tóm tắt

Tác phẩm nghệ thuật thường chứa đựng nhiều ý nghĩa. Các tác phẩm xuất sắc của các tác giả lớn thường ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa, dẫn dắt độc giả khám phá từ điểm này đến điểm khác. Ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến cũng thuộc dạng tác phẩm như vậy. Chúng cho phép người đọc cảm nhận từ nhiều khía cạnh, chiều sâu khác nhau. Việc đặt các hình ảnh của ba bài thơ thu vào cùng một hệ thống, quan sát chúng dưới góc độ ước lệ của văn chương trung đại và điều kiện sáng tác, đưa ra cái nhìn rõ ràng về cảnh sắc trong ba bài thơ thu không phải lúc nào cũng thơ mộng, cũng như tâm sự trong ba bài thơ thu không chỉ dừng lại ở u hoài thầm kín. Ngược lại, đó là trạng thái tù túng, ngột ngạt, là sự nổi trôi, mơ hồ, vô định của thế giới hiện tượng và sự nhỏ nhoi, cô đơn, bất lực của con người trước cảnh tàn, đời tàn, thời tàn. Điều này làm cho ba bài thơ thu Nguyễn Khuyến thể hiện rõ sắc thái đau buồn, chán nản, tuyệt vọng của thơ Nôm Nguyễn Khuyến và thống nhất với đặc trưng con người trong sáng tạo của ông: 'Nhà nho xưa thường tự lí tưởng hoá mình, tự vận với các bậc danh sĩ quá khứ. Nguyễn Khuyến bước sang giai đoạn tự trào, tự phủ nhận'; 'Ông là nhà thơ cổ điển đầu tiên thấy cái rỗng không của con người lí tưởng truyền thống, là nhà thơ mở đầu sự đổi thay các ý nghĩa tượng trưng của hệ thống thi pháp cổ xưa'. Chỉ với ba bài thơ thu này, Nguyễn Khuyến đã vừa chứng minh tài năng thi ca bậc thầy vừa thể hiện sâu sắc nỗi lòng nhức nhối của một trí thức tự thấy mình bất lực, vô nghĩa trước thời cuộc!

Ngoài nội dung trên, học sinh có thể tham khảo thêm Bài giảng điện tử Câu cá mùa thu để chuẩn bị cho việc học bài Câu cá mùa thu - Nguyễn Khuyến trong sách giáo trình Ngữ Văn 11.

Trong giáo trình Ngữ Văn lớp 11, bài học về Câu cá mùa thu là một phần quan trọng mà học sinh cần tập trung Phân tích chi tiết bài thơ Câu cá mùa thu.

Nội dung được phát triển bởi đội ngũ Mytour với mục đích chăm sóc và tăng trải nghiệm khách hàng.

Nguyễn Khuyến có bao nhiêu bài thơ thu?

Ba chùm bài thơ: Thu vịnh, Thu điếu và Thu ẩm là ba cảnh thu khác nhau nhưng hợp lại thành một bức tranh hoàn chỉnh về mùa Thu với những nét đặc trưng của thơ Nguyễn Khuyến. Cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu.nullMùa Thu trong thơ Nguyễn Khuyếnquangnam.gov.vn › webcenter › portal › nuithanh › pages_tin-tuc › chi-tietnull

Thu điếu thư Vinh thu âm nghĩa là gì?

- "Thu vịnh: thông thường vẫn hiểu là vịnh mùa thu, nhưng về chữ Hán còn cho phép hiểu: mùa thu, làm thơ (vịnh). Cách hiểu này sẽ ăn khớp với cách hiểu hai tiêu đề sau: Thu điếu: mùa thu, câu cá. Thu ẩm: Mùa thu, uống rượu". Chú như thế là lủng củng.nullNhân bàn về bài thu vịnh - Thử tìm hiểu cái gốc của sự buồn tẻ trong ...tapchisonghuong.com.vn › tin-tuc › Nhan-ban-ve-bai-thu-vinh-Thu-tim-hi...null

Bài thơ thu của ai?

Mỗi bài thơ thu của Nguyễn Khuyến thực là một bức tranh thuỷ mặc bằng ngôn từ, diễn tả được đúng thần thái cảnh thu đồng bằng Bắc Bộ với những hình ảnh đặc trưng: trời xanh, nước trong, lá vàng, khói trắng, ao, nhà, ngõ… Đọc ba bài thơ dễ nhận thấy không khí yên ả, dịu êm của làng quê tự bao đời.nullBÀN THÊM VỀ BA BÀI THƠ THU CỦA NGUYỄN KHUYẾNphilology.hpu2.edu.vn › ban-them-ve-ba-bai-tho-thu-cua-nguyen-khuyennull

Thư vinh của ai?

Nhắc đến Nguyễn Khuyến, người đời thường nhắc tới chùm thơ thu với ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm. Đây là những bài thơ tiêu biểu nhất cho thơ Nôm Nguyễn Khuyến.nullĐúng, Nguyễn Khuyến sáng tác Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm - VnExpressvnexpress.net › ai-duoc-truyen-tung-la-tam-nguyen-yen-do-3715601-p9null