Phân tích trao duyên 14 câu giữa

           Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông từng phiêu bạt, sống gian khổ ở nhiều nơi khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Qua trang đời của người con gái tài hoa bạc mệnh - Thúy Kiều, Nguyễn Du đã phải thốt lên: "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung". Trao duyên là nốt nhạc buồn khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh suốt mười lăm năm của Thúy Kiều. Nếu như ở 12 câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.
 

           Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông từng phiêu bạt, sống gian khổ ở nhiều nơi khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Qua trang đời của người con gái tài hoa bạc mệnh - Thúy Kiều, Nguyễn Du đã phải thốt lên: "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung". Trao duyên là nốt nhạc buồn khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh suốt mười lăm năm của Thúy Kiều. Nếu như ở 12 câu đầu Thúy Kiều nhờ cậy em gái Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng thì ở 14 câu tiếp Thúy Kiều đầy xót xa đau đớn mà trao kỉ vật cho Thúy Vân và nhờ cậy em truyện mai sau.
          Nguyễn Du có tên chữ là Tố Như hiệu là Thanh Hiên, quê tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình vô cùng danh giá, cha làm quan lớn trong triều Lê, anh trai cùng cha khác mẹ cũng làm tới quan Tham tụng trong triều. Tuổi thơ ông đầy biến động, cha mẹ mất sớm, phải tha hương nhiều nơi lúc thì về quê cha, khi về quê mẹ và có một thời gian phải phiêu dạt tận quê vợ ở Thái Bình. Có thể nói chính cuộc sống chìm nổi cùng với thời thế đầy biến động, phiêu bạt nhiều nơi đã tạo nên một Nguyễn Du có học vấn sâu rộng, trái tim chất chứa yêu thương và cảm thông sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Nguyễn Du được coi là một người có thiên phú văn học từ nhỏ, bậc thầy trong việc sử dụng tiếng Việt, là ngôi sao sáng chói trên bầu trời văn học Việt Nam. Ông để lại cho đời cả một kho tàng văn học phong phú với khoảng hơn ngàn tác phẩm bao gồm cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó không thể không kể đến Truyện Kiều. Đó là một kiệt tác viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân, tuy nhiên đã được sáng tạo tài tình cải biến để phù hợp với xã hội Việt Nam. Câu truyện được kể bằng 3254 câu thơ, đoạn trích Trao duyên bắt đầu từ câu 723 đến 756.

     Sau khi nhờ cậy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng, Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu lại cho Vân:

"Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung"

     "Chiếc vành", "tờ mây" là những kỉ vật minh chứng cho tình yêu cũng là lời thề ước của Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỉ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa nay đành gửi gắm tất cả lại cho Vân. Đồ vật thì có thể trao lại cho người khác, nhưng còn tình cảm thì làm sao gửi gắm được, tình yêu giữa hai người đâu phải muốn cho ai là cho. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng giữa Kiều và chàng Kim, không thể có người thứ ba xen vào. “Duyên này thì giữ” là trao kỉ vật nhưng không thể quên được kỉ niệm điều đó chứng tỏ tình yêu sâu đậm, nồng nàn của  Kim - Kiều. “Của chung” là vật từng là của riêng Kim và Kiều, nay là của chung Kim, Kiều, Vân, nó gợi được sự đau đớn và tiếc nuối. Nguyễn Du có lẽ đang oán cái chế độ xã hội tàn bạo, cổ hủ khiến cho một tình yêu thiêng liêng, mặn nồng như thế phải tan vỡ. 

     Kỉ vật đã trao lại cho em, Kiều nhắc nhở Vân những lúc hạnh phúc ở bên người yêu thì đừng quên chị:

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa"

     Trao kỉ vật lại cho em cũng nhằm để cho em nhớ đến mình, nàng tự coi mình là “mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Sợi tơ duyên đẹp đẽ ngày nào đã mất đi thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng Thúy Vân còn giữ kỉ vật cũng như nhớ về người chị “mệnh bạc” này. Chút níu giữ đó là vật làm tin nay cũng trao đi rồi, còn "phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều đã sẵn sàng đón nhận:

"Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về"

     Tác giả sử dụng từ ngữ mang tính giả định "mai này", "dù có" để thấy được tưởng tượng của Kiều về cảnh ngộ của mình trong tương lai, Thúy Kiều đã mất niềm tin vào tương lai phía trước. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn nghĩ về cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho dù chết cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu vào đâu.

     ​​​​​​​Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan"

     Hình ảnh "hồn", "thân bồ liễu", "ghì trúc mai",  "dạ đài", "giọt nước", "thác oan" gợi ra cuộc sống cõi âm, đầy tâm linh, ma mị. Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên. Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.

          Bằng nghệ thuật khắc họa, miêu tả nội tâm nhân vật, ngôn ngữ độc thoại sinh động, sử dụng ngôn từ điêu luyện tác giả đã cho người đọc thấy được tâm trạng vật vã, đau đớn rồi ngất đi trong tiếng kêu thảng thốt, ai oán của Thúy Kiều. Đó là tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Kiều khi phải nhường lại tình yêu của mình và Kim Trọng. Qua đó thấy được bi kịch mà người phụ nữ xưa phải chịu rất nghiệt ngã. Thời gian trôi qua đã hàng trăm năm nhưng đoạnn trích Trao duyên nói riêng và kiệt tác Truyện Kiều nói chung vẫn còn nguyên giá trị bởi tài năng miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao. 

Phân tích 14 câu giữa bài trao duyên để thấy được nỗi đau đớn về tình yêu Kim – Kiều bị chia cắt và tổng kết lại số phận ngang trái, chuân chuyên của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Sau đây là các bài văn mẫu cảm nhận 14 câu giữa bài Trao Duyên hay và chi tiết, mời các bạn cùng tham khảo với CNTA nhé !

Phân tích trao duyên 14 câu giữa
Phân tích 14 câu giữa bài trao duyên và cảm nhận 14 câu giữa bài trao duyên hay nhất

Dàn ý 14 câu giữa trao duyên

Dưới đây là hướng dẫn Dàn ý 14 câu giữa trao duyên hãy cùng tham khảo để làm bài thật tốt nhé :

Dàn ý 14 câu giữa trao duyên

A. Mở Bài

  • Tác giả Nguyễn Du, Truyện Kiều, bài thơ Trao duyên, 16 câu trung gian (hình ảnh mây trời biên cương… giọt nước cầu mong cho những nạn nhân oan trái)
  • Lưu ý: Học sinh tự chọn cách dẫn dắt lớp, trực tiếp hoặc gián tiếp tùy theo khả năng của mình.

B. Thân Bài

“Đường viền với đám mây, ………………………………………………………………………………………………………………

Tôi rất tiếc cho những người bất hạnh và sẽ không bao giờ quên điều đó ”.

  • Sau khi Vân đồng ý nhận lời quan hệ, Kiều đã mang theo quà lưu niệm cùng Kim. Nếu Vân và Kim Trọng thành một đôi thì thật nhớ ơn sâu.
  • Thật đau đớn và buồn cho một người thân yêu phải quan hệ với một người chị thật sự, nhưng lòng tốt mà Vân dành cho cô ấy sẽ được Kyou ghi nhớ mãi mãi.

“Dù sao thì trong tương lai … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … … …

Tôi đổ một giọt nước cho tội nhân “

  • Tuy nhiên, Raise phải từ giã cõi đời, nhưng dù còn sống hay không, anh vẫn luôn hướng về quê hương, cha mẹ, anh trai và Kim.
  • Cô gái nghĩ đến tình huống xấu nhất khi bị “oan hồn” trở về nhà và nhờ Vân xịt cho mình một cốc nước để giải thoát tâm hồn.
  • Lúc này, nỗi buồn của Kiwi dường như đã được đẩy lên một cao trào mới. Những suy nghĩ tản mạn đè nặng lên vai cô gái đang sống yên ổn.
  • Anh không thể thoát khỏi mối lương duyên đã tan vỡ, hoàn cảnh gia đình ly tán và nỗi đau phải nuôi thân vì rẻ mạt.

C. Kết Bài

Nêu tóm tắt nội dung và nghệ thuật của câu 16. Đồng thời khái quát giá trị của bài thơ và toàn bộ tác phẩm.

Sơ đồ tư duy phân tích 14 câu giữa bài trao duyên

Sơ đồ tư duy phân tích 14 câu giữa bài trao duyên giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn về bài văn cũng như giúp làm bài tốt hơn hãy cùng tham khảo nhé !

Phân tích trao duyên 14 câu giữa
Sơ đồ tư duy phân tích 14 câu giữa bài trao duyên

Tổng hợp bài văn phân tích 14 câu giữa bài trao duyên và cảm nhận 14 câu tiếp trao duyên

Để làm rõ tâm trạng của Thuý Kiều khi trao vật kỉ niệm và đưa ra lời khuyên của Thuý Vân, chúng ta cùng phân tích 14 câu giữa của bài ‘Trao duyên’. Xin lưu ý rằng sau đây là bài phân tích mẫu gồm 14 câu ở giữa các câu danh ngôn được chọn lọc hoặc chọn lọc. Hãy tham khảo Tổng hợp bài văn phân tích 14 câu giữa bài trao duyên và cảm nhận 14 câu tiếp trao duyên :

Phân tích trao duyên 14 câu giữa
Tổng hợp bài văn phân tích 14 câu giữa bài trao duyên và cảm nhận 14 câu tiếp trao duyên

Phân tích 14 câu giữa bài trao duyên

Cảm nhận 14 câu giữa đoạn trích Trao Duyên – Có lẽ, đoạn trích “Trao duyên” trong tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du không đơn thuần chỉ dừng lại ở việc trao duyên nữa. Mười bốn câu thơ trong đoạn trích “Trao duyên” là tất thảy nỗi đau đớn về tình yêu Kim – Kiều bị chia cắt và tổng kết lại số phận ngang trái, chuân chuyên của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

Nguyễn Du (1765 -1820) được coi là một đại thi hào của nền văn học dân tộc Việt Nam. Nguyễ Du tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh ra và lớn lên tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con một gia đình phong kiến quý tộc nhưng sống giữa một thời kì lịch sử đầy biến động. Trải qua hơn chục năm sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau, ông có cơ hội chứng kiến tất thảy những bất công ngang trái của cuộc đời nhất là người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội cũ. Căm phẫn trước chế độ, thương thay cho thân phận người phụ nữ, tin yêu vào phẩm chất con người… Nguyễn Du đã truyền tải những điều đó trong cùng một tác phẩm “Truyện Kiều”.

Đoạn trích “Trao duyên” trích từ tác phẩm “Truyện Kiều” nói tới việc Thúy Kiều nhờ cậy em gái là Thúy Vân giúp mình tiếp nối mối duyên nồng với Kim Trọng để thay nàng đền đáp tình yêu nặng của nàng.

Mười bốn câu thơ sau đây tái hiện đầy đủ bi kịch tan vỡ của tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng cùng nỗi đau tột cùng về số phận bi thương của đời Kiều. Qua đó, người đọc thấy được tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du và niềm ca ngợi khát vọng hạnh phúc của con người:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Sau khi cậy nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều trao lại cho em kỉ vật tình yêu:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

“Chiếc vành” và “tờ mây” là hai kỉ vật minh chứng tình yêu và cũng là lời thề ước giữa Kim Trọng và Thúy Kiều. Kỉ vật của một mối tình đẹp mà Kiều không nỡ rời xa nay đành lòng gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân.

Phân tích trao duyên 14 câu giữa
phân tích trao duyên 14 câu giữa

Đồ vật có thể cho, tặng nhưng tình cảm đâu phải là thứ nói cho là cho, nhất là tình yêu. Cái “chung” trong tình yêu ở đây nó phá vỡ tính quy luật của tình yêu đôi lứa. Tình yêu chỉ thực sự thiêng liêng, vĩnh cửu khi nó là của riêng Thúy Kiều với Kim Trọng. Tình yêu vốn không cho phép có người thứ ba. Một khi có người thứ ba, sự thiêng liêng sẽ bắt đầu đổ vỡ. Nguyễn Du có lẽ đang oán, oán cái chế độ xã hội tàn bạo, cổ hủ, nhiễu nhương khiến cho tình yêu thiêng liêng phải tan vỡ.

Từ đây những kỉ vật Kiều trao lại cho Vân sẽ chỉ còn là vật làm tin để Vân nhớ đến Kiều. Kiều nhắc nhở Vân những lúc em hạnh phúc bên người yêu thì đừng bao giờ quên chị:

“Dù em nên vợ nên chồng

Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Nỗi đau như đọng lại trong lời thơ “Dù em nên vợ nên chồng”. Nhìn người mình yêu nên vợ nên chồng với người khác đau xót biết nhường nào. Hơn nữa, tuy nguyện vọng của Kiều thành hiện thực, nhưng nàng vẫn đặt ra những giả thuyết tương lai như có điều gì đó vẫn chưa ổn, chưa yên. Kiều tự coi mình là kẻ “mệnh bạc” để người khác phải xót xa, thương hại.

Bốn câu thơ tiếp theo là dự cảm về cái chết mà Kiều đã chuẩn bị sẵn tinh thần để đón nhận:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”

Phải nghiệt ngã đến thế nào mà một người mới tuổi xuân xanh cứ ám ảnh hoài về cái chết. Kiều đã mất hết niềm yêu sống trong hiện tại. Kiều chỉ nghĩ tới tương lai và trông chờ vào lòng thương của kẻ khác. Khi Vân hạnh phúc hãy nhớ tới linh hồn của Kiều mà đốt nén hương, chơi bản nhạc tặng Kiều. Nếu có ngọn gió vật vờ nơi lá cây, ngọn cỏ hãy nhớ tới Kiều.

“Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Với Kiều, duyên tình có lẽ đã hết, kỉ vật tình yêu cũng đã trao tay, nhưng tâm hồn của nàng vẫn sẽ mãi ghi nhớ lời thề với chàng Kim. Kiều ví mình như thân của liễu, như cành trúc cành mai tuy mỏng manh nhưng thanh cao. Kiều không quản “nát thân”, “đền nghì” vẫn sẽ ghi tạc ơn tình đậm sâu của Kim Trọng.

Kiều dặn dò Vân:

“Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Kiều tự cho rằng mình sẽ thuộc về chốn âm ti địa ngục. Nhưng dù có “cách mặt khuất lời” tức là sẽ không thể thấy hay nghe được tiếng nói của nhau, thì Vân hãy cứ rảy chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có gì đó như là ấm ức, oan uổng lắm nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát. Đó cũng là nỗi ấm ức của chính tác giả khi muốn lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.

Đoạn trích “Trao duyên” là tình yêu và cũng là số phận bi kịch của Kiều. Nguyễn Du đã thành công trong việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Tuy tác phẩm đã ra đời cách nay mấy trăm năm nhưng câu chuyện về thân phận và vẻ đẹp người phụ nữ vẫn là nỗi nhức nhối trong xã hội cả trước và nay.

Phân tích trao duyên 14 câu giữa

Phân tích Nghệ thuật 14 câu giữa bài trao duyên

Mở bài 14 câu giữa trao duyên

Nguyễn Du được mệnh danh là đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công của cuộc đời và có tấm lòng thương cảm đặc biệt với những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ sang Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo kiệt tác ”Truyện Kiều”. Đoạn trích “Trao Duyên” trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện cảnh tan vỡ, dang dở tình duyên của Thúy Kiều và Kim Trọng.

Thân bài cảm nhận 14 câu giữa bài Trao duyên

Biến cố xảy đến bất ngờ khi đoạn tình cảm giữa Kim và Kiều đang độ nồng thắm. Lại thêm không có Kim Trọng ở cùng, Kiều đã rơi vào hoàn cảnh bế tắc. Sau khi thu xếp việc bán mình để cứu cha và em xong xuôi, ngày mai nàng sẽ phải theo Mã Giám Sinh rời đi. Sau khi đã lo liệu cho gia đình thì nằng mới nghĩ đến đoạn tình cảm của mình và Kim Trọng nên cuối cùng, nàng đã tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em. Thúy Vân vì cảm thông, đã nhận lấy những kỷ vật giữa chị và chàng Kim:

”Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Thúy Kiều từ từ trao lại những kỷ vật tình yêu với Kim Trọng là “chiếc vành”, ”bức tờ mây” rồi đến ”phím đàn”, ”mảnh hương nguyền” cho Thúy Vân. Kiều đưa từng món một. Mỗi vật đều gắn với một kỷ niệm, mang một ý nghĩa của mối tình giữa hai người. Với Vân, có thế đó chỉ là những vật vô tri, nhưng với Kiều mỗi kỷ vật là cả một vùng trời ký ức, là lời thề nguyền gắn bó trăm năm… gắn liền với những ngày đẹp nhất đời Kiều. Khi đã đưa tất cả lại cho Thúy Vân, nàng còn dặn với ”Duyên này thì giữ vật này của chung”.

”Duyên này” là duyên giữa người em Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều coi như đã hết. Những kỷ vật này thì em hãy coi là ”của chung” bởi còn là một phần là của chị. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi phải chia sẻ cho người khác. Cảnh ngộ trớ trêu bắt Kiều phải ”lỗi lời thề” nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ dàng nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ.

Cứ tưởng rằng ”duyên” đã trao là lòng nhẹ bẫng không còn vướng bận, nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại chứa đựng bao nhiêu sự giằng xé, cố níu kéo trong đau đớn. Lý trí bắt buộc Kiều phải dứt tình với Kim Trọng nhưng tình cảm của nàng lại không thể tuân theo một cách dễ dàng. Nỗi đau như càng dâng lên ở câu thơ “dù em nên vợ nên chồng” – Kiều tự thấy đáng thương bản thân, cảm thấy mình là người mệnh bạc để người khác phải xót xa thương hại.

”Mất người còn chút của tin” nàng chỉ có thể trao duyên còn tâm tình nàng vẫn không thể trao, nàng đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Nàng vừa dùng dằng, vừa gửi gắm tất cả lại cho Thúy Vân rồi tâm trạng mâu thuẫn thật sự trong lòng nàng mới bùng lên mạnh mẽ nửa muốn trao, nửa muốn giữ. Mất bao công sức để thuyết phục Thúy Vân nhưng chính lúc em mình chấp nhận cũng là lúc Kiều bắt đầu chơi vơi cố níu tình yêu lại với mình. Sau đó Kiều để mặc cho cảm xúc trong lòng tuôn tràn.

Điều đặc biệt nằm ở chữ ”giữ” và ”của chung”. ”Giữ” không phải là trao hẳn mà chỉ là đưa cho em ”giữ” hộ. Còn chữ ”của chung” lại thể hiện tâm lý của Kiều không đành lòng trao tất cả lại cho Thúy Vân. Điều đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn trao duyên cho em, khẳng định nàng đã đặt hạnh phúc của người yêu lên trên hết. Đoạn thơ là một tiếng nghẹn ngào chứa đầy tâm trạng của nàng khi ấy, làm người đọc cảm thấy đau lòng.

Quá đắng cay cho số phận của mình, thấy rõ là mình mệnh bạc, tất cả chỉ còn là quá khứ, Thúy Kiều nghĩ đến một tương lai mù mịt, đau thương khi mình đã chết. Hơn lúc nào hết, ý nghĩ đó cứ hiện ra và rõ nét dần.

”Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”

Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thăm thẳm, một hơi thở khác hẳn với lúc bắt đầu Trao duyên. Đây vẫn là những lời tâm sự của nàng với chàng Kim mà sao lời lẽ lại trở nên xa lắng, mù mịt, phảng phất ma mị như từ cõi bên kia vọng về đến thế. Hàng loạt từ nói về cõi chết: cùng với âm điệu chập chờn, hư ảo, thời điểm không xác định ”mai sau”, ”bao giờ”, không khí linh thiêng ”đốt lò hương”, ”so tơ phím”, hình ảnh phất phơ, ma mị ”ngọn cỏ lá cây”, ”hiu hiu gió”,… Kiều bắt đầu cảm nhận rõ hơn về những bi kịch mà mình sắp trải qua. Nàng cảm thấy bản thân thật đáng thương.

Nàng tưởng tượng đến cảnh tượng hạnh phúc của Trọng – Vân, còn mình chỉ là linh hồn ”xương trắng quê người”, bất hạnh nhưng vẫn ”mang nặng lời thề”, vẫn mong muốn được theo làn gió nhẹ ”hiu hiu” trên ”ngọn cỏ lá cây” để trở về cõi trần gặp lại người thương yêu. Duyên tình của Kiều đã hết, kỷ vật tình yêu cũng đã trao cho Vân, nhưng hồn của nàng vẫn chưa dứt nổi Kim Trọng. Thế mới biết nàng thủy chung đến mức nào. Nàng cô đơn, tuyệt vọng và dự cảm được tương lai đầy bất hạnh của chính mình. Nghĩ đến đấy, Thúy Kiều tha thiết:

”Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Lo cho người khác đã xong xuôi, nàng mới tự nhìn lại mình mà tủi thân. ”Dạ Đài” là nơi âm phủ, trong cảnh ngộ ”cách mặt khuất lời” hồn Thúy Kiều vẫn khao khát nhận được sự cảm thông, nên chỉ xin Trọng một ”chén nước” để tẩy oan. Chứng tỏ Thúy Kiều vẫn khao khát được trở về cõi trần thế để chứng minh cho ty bất diệt của mình. Nàng đau khổ, sợ hãi trước tương lai mù mịt…Thế mới thật sự là giằng xé tâm can.

Kết bài 14 câu giữa trao duyên

Dưới ngòi bút tài hoa tuyệt thế của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện lên rất rõ là một cô gái vị tha và giàu lòng yêu thương nhưng vô cùng nhạy cảm. Qua nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và thông qua lời đối thoại và độc thoại, nỗi đau và tâm hồn của Kiều càng được thể hiện tinh tế, sinh động, sâu sắc và đầy tâm trạng của Thúy Kiều.

Đoạn trích là những bức tranh về bi kịch tình yêu bậc nhất trong Truyện Kiều. Qua đó, bộc lộ phẩm chất cao đẹp của Thúy Kiều trong tình yêu. Trước sự tan vỡ của tình yêu, nàng làm tất cả những gì có thể làm được để người mình yêu được hạnh phúc và chịu hết đau đớn về phần mình. Đoạn trích đã thể hiện được tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du: nỗi cảm thông sâu sắc đối với bất hạnh của con người trong xã hội xưa.

Cảm nhận về 14 câu thơ giữa bài trao duyên chiếc vành với bức tờ mây

Cảm nhận về 14 câu giữa đoạn trích Trao DuyênTruyện Kiều được xem là một thiên truyện nói về nỗi đau của con người trong chế độ đầy rẫy những bất công. Là tác phẩm có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Là tác phẩm đạt đến trình độ mẫu mực cổ điển mà tiêu biểu đó là nghệ thuật tả người, khắc họa tâm lý nhân vật tinh tế, sâu sắc. Để minh chứng cho điều đó chúng ta có thể tìm hiểu ở 14 câu giữa của đoạn trích Trao Duyên.

Phân tích trao duyên 14 câu giữa
Cảm nhận về 14 câu thơ giữa bài trao duyên

Đoạn trích thuộc đoạn mở đầu cho cuộc đời lưu lạc đầy rẫy những khổ đau, ngang trái mà Thúy Kiều phải chịu đựng. Sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng cha và em trai bị hàm oan và bị bắt giam. Thúy Kiều đành phải bán mình cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em trai. Trước đó Kiều đã có hẹn ước với Kim Trọng, nay đành phải “trao duyên” này cho em là Thúy Vân. Đoạn trích Trao Duyên chính là đoạn nói về việc Thúy Kiều nhờ cậy em trả nghĩa cho chàng Kim. Nhan đề Trao Duyên nhưng không phải việc trao giữa nam và nữ có tình cảm với nhau như ta từng bắt gặp trong ca dao. Ở đây Trao Duyên là gửi tình, gửi duyên cho người khác, người sẽ tiếp nối duyên phận, mối tình dở dang của mình.

Sau khi cậy nhờ em cũng như nhớ lại mối tình của mình với chàng Kim thì mười bốn câu thơ giữa bài tái hiện bi kịch tình yêu tan vỡ của mình:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung

Dù em nên vợ nên chồng

Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên

Mất người còn chút của tin

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa

Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời

Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Sau khi nhờ cậy và biết rằng em thuận lòng và để tăng thêm sự dứt khoát cũng như nắm chắc quyết định dứt tình với chàng Kim thì Thúy Kiều đã giao ra kỷ vật đó là “chiếc thoa” với “bức tờ mây”. Nếu nói trao duyên, trao tình cảm thì nghe còn trừu tượng, chưa có cơ sở, nhưng khi đưa ra tất cả những tín vật thì chắn hẳn lúc này Thúy Kiều vô cùng đau đớn. Có thể nói khi nhìn người mình yêu sánh đôi với kẻ khác đã đau đớn mà chính mình chặt đứt tơ duyên, đem trao duyên này cho người khác thì càng đau xót đến nhường nào. Trao kỷ vật cũng nhằm để cho Thúy Vân nhớ đến mình, nàng tự coi mình là “mệnh bạc” để người khác xót xa thay cho thân phận mình. Kiều còn tưởng tượng ra cảnh sau này em mình và chàng Kim:

“Dù em nên vợ nên chồng,

Xót thương mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”

Kiều tự coi bản thân chuyến này như đã chết, đánh mất bản thân, mất đi tơ duyên ngày nào thì sống trên đời cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Kiều chỉ mong rằng Thúy Vân còn giữ kỷ vật cũng như về người chị “mệnh bạc” này”. Chút níu giữ đó là vật làm tin nay cũng trao đi rồi, còn”phím đàn” ở lại như để mỗi khi ai đó đánh lên sẽ nhớ tới nàng. Bốn câu thơ tiếp theo chính là những dự cảm về cái chết mà Kiều đã sẵn sàng đón nhận:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này

Trông ra ngọn cỏ lá cây

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”

Cả một đoạn thơ dài đều là những ảm ảnh về cái chết chứ không phải ở bốn câu thơ trên. Chắc hẳn Thúy Kiều đã mất niềm tin vào tương lai phía trước, đứng trước sự nghiệt ngã ở đời thì nàng không trông mong khi mình đi rồi sẽ tìm được hạnh phúc, sẽ được ấm êm. Một người đương tuổi xuân phơi phới nhưng luôn canh cánh về cái chết. Nàng chỉ mong ước duy nhất đó là mai sau Thúy Vân hãy nhớ tới linh hồn của mình để nàng đỡ lẻ loi, hiu quạnh. Khi đàn, khi đốt hương hay khi trông ra ngọn cỏ thì hãy nhớ đến người chị này. Kiều mất niềm tin vào cuộc sống, cho dù chết cũng chỉ biết nương nhờ cỏ cây, vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ chứ chẳng biết bám víu vào đâu.

Duyên tình đã hết, dù cho có chết đi và mọi người có thể quên lãng nhưng nàng vẫn mang những tâm tư, tình cảm đi theo:

“Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai”

Lời thề, lời hẹn ước mặc dù đã được trao cho em thay mình trả nhưng không có nghĩa là cô đã hoàn toàn trút bỏ, lãng quên. Thậm chí kể cả khi đã chết thì vẫn “mang nặng lời thề”. Nàng tự ví mình như “bồ liễu”, “trúc mai” tuy mảnh mai, yếu đuối nhưng lại thanh cao. Mong muốn được rửa oan khuất khi bị tước mất quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc.

Nghị luận 14 câu giữa bài trao duyên rưới xin giọt nước cho người thác oan

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã từng chứng kiến ​​những bất công, oan nghiệt của cuộc đời, đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi sang Trung Quốc truyền giáo, Nguyễn Du đã tạo nên kiệt tác Truyện Kiều. Đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều là đoạn trích thể hiện bi kịch về mối tình tan vỡ, dang dở của Thúy Kiều và Kim Trọng. Nếu ở những câu đầu, Thúy Kiều nương nhờ người em Thúy Vân để kết duyên cùng Kim Trọng thì 14 câu tiếp theo, Thúy Kiều đầy sầu não, đau đớn mà trao kỷ vật cho Thúy Vân và nhờ nàng kể lại câu chuyện trong tương lai.

Phân tích trao duyên 14 câu giữa
Nghị luận 14 câu giữa bài trao duyên

Khi mối tình giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang diễn ra đẹp đẽ, thắm thiết thì bất ngờ tai họa lại ập đến. Sau khi thu xếp mọi việc để bán mình cứu cha và anh trai, ngày mai cô sẽ phải theo Mã Giám Sinh ra khỏi nhà. Đêm ấy, Kiều không chịu được cảnh dở dang với Kim Trọng nên cuối cùng sau khi cố gắng thuyết phục, trao gửi tình cảm, khi thấy Vân thương cảm, Thúy Kiều đã mang từng kỷ vật để trao gửi tình yêu giữa mình và Kim Trọng. Kim Trọng tặng em gái:

” Vành có mây

Với số phận này, hãy giữ lấy điểm chung này

Dù đã nên vợ nên chồng.

Thương hại một người có số phận bạc mệnh mà họ sẽ không thể quên

Mất một ai đó để lại một chút tin tức

Bàn phím với một mảnh hương bị nguyền rủa trong quá khứ ”

Thúy Kiều từ tốn trao kỷ vật tình yêu “cái vành”, “tấm mây” rồi đến chiếc “chìa khóa”, “nén nhang” cho Thúy Vân. Kiều trao cùng một lúc, nhưng trao từng người một. Mỗi món ăn đều gắn với một kỷ niệm, mang một nghĩa tình nồng nàn. Dường như Thúy Kiều vừa trao vừa ngập ngừng nhìn từng kỷ vật, bồi hồi nhớ lại từng kỷ niệm với niềm tiếc nuối khôn nguôi cho tình yêu tươi mới ngày nào. Đối với Vân, đó có thể là những vật vô tri vô giác, nhưng với Kiều, mỗi kỉ vật là cả một trời kỉ niệm, là nhân chứng cho tình yêu hạnh phúc, là lời thề nguyện gắn bó trăm năm… Đó là ngày đẹp nhất trong cuộc đời của Kiều. Khi đã giao phó mọi việc cho Thụy Vân, cô ấy đã nói với cô ấy rằng: “Duyên phận này, hãy giữ lấy cái chung”.

” Duyên phận này ” là mối lương duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, nhưng phận Kiều coi như đã hết. Anh đã trao trọn tình cảm cho em nhưng những kỉ vật này em hãy coi như là “tài sản chung” vì vẫn còn đó một phần của em. Khi Kiều kể cho Vân nghe về chuyện tình cảm của mình, giọng điệu vẫn bình thản, nhưng đến lúc trao lại kỷ vật, nàng cảm thấy mình đã mất tất cả nên không kìm được cảm xúc đang trào dâng trong lòng. Cô ấy hối hận và đau đớn khi có người thứ ba chia sẻ. Trái tim bắt đầu biết nói. Hoàn cảnh buộc Kiều phải “thề non hẹn biển” nhưng trong thâm tâm nàng không dễ gì có thể nguôi ngoai lời thề và đoạn tuyệt tình cũ. Lòng đầy đau buồn, đau đớn tột cùng, Thúy Kiều vẫn giữ một chút an ủi.

Những tưởng cho đi “từ thiện” là lòng nhẹ nhàng không còn vướng bận, sẽ chẳng còn gì để níu kéo trên con đường phía trước, nhưng ai ngờ trong tâm hồn Kiều lại có bao nỗi vất vả, cố níu kéo, đau đớn. đau đớn. Rõ ràng, lý trí buộc Kiều phải chấm dứt tình yêu với chàng Kim, nhưng tình cảm không thể dễ dàng nghe theo. Nỗi đau như đọng lại trong câu thơ “dẫu làm vợ, thành chồng” – Kiều thấy mình thật đáng thương, mình là người có số phận để người khác thương cảm. “Mất người, niềm tin còn lại ít” Kiều chỉ biết trao đi tình yêu, nhưng tình yêu vẫn không thể cho đi, lòng không bình yên, cô đau đớn đến mức nghĩ đến cái chết. Cô chần chừ, giao phó mọi việc cho Thụy Vân để rồi mâu thuẫn thực sự trong lòng bùng lên mạnh mẽ, nửa muốn cho, nửa muốn giữ. Cô ấy đã phải mất rất nhiều công sức để thuyết phục tôi, nhưng chính khi tôi chấp nhận, Kiều mới bắt đầu giở trò đồi bại và cố gắng níu kéo tình yêu của mình. Rồi Kiều để dòng cảm xúc tuôn trào.

Nhưng có một điều đặc biệt ở từ ” giữ ” và ” chung ”. ” Giữ ” không có nghĩa là cho đi, mà chỉ là trao cho mình để ‘giữ’. Từ “thủy chung” thể hiện tâm lý Kiều không muốn trao lại tất cả cho mình. Những lời nói đó chứng tỏ tình yêu của nàng và Kim Trọng thật nồng nàn, sâu sắc. Tuy nhiên, Kiều vẫn dành trọn tình cảm cho mình, khẳng định rằng Thúy Kiều đã đặt hạnh phúc của người mình yêu lên trên hết. Câu thơ là tiếng thổn thức đầy tâm trạng của chị lúc bấy giờ khiến người đọc không khỏi chạnh lòng. Đó cũng là tài diễn tả tâm lý độc đáo của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du

Tóm lại đoạn trích Trao Duyên đã nói lên bi kịch tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Đây cũng là đoạn thơ đặc sắc khi Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm lý, miêu tả nội tâm nhân vật. Qua đó phản ánh bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Video hướng dẫn 14 câu giữa bài trao duyên