Penelope - Vợ của Odysseus và mẹ của Telemachus trong thần thoại Hy Lạp

Hô-me-rơ (Homer) là tác giả của các tác phẩm I-li-át (Iliad) và Ô-di-xê (Odyssey). Ông được coi là một trong những nhà thơ Hy lạp cổ đại xuất sắc nhất. Hai tác phẩm I-li-át và Ô-đi-xê của ông đã có ảnh hưởng lớn đến văn chương hiện đại phương Tây.

Theo truyền thuyết thì ông bị mù và là một người hát rong tài năng. Herodotus ước tính rằng Homer sống 400 năm trước thời đại của ông, điều này đặt Homer vào khoảng 850 trước Công nguyên. Trong khi nguồn khác cho rằng ông sống trong khoảng thời gian của cuộc chiến thành Troy, tức là vào những năm đầu thế kỷ 12 trước Công nguyên. Hầu hết các học giả sau này đặt Homer vào giai đoạn lịch sử thế kỷ 8 hoặc 7 trước Công nguyên.

Ảnh hưởng cơ bản của các thiên anh hùng ca Homer trong việc hình thành văn hóa Hy Lạp đã được công nhận rộng rãi, và Homer đã được mô tả như là người thầy của Hy Lạp. Các tác phẩm của Homer, trong đó khoảng một nửa là các bài hùng biện, đã cung cấp các bài mẫu về văn nói và văn viết có sức thuyết phục trong suốt thế giới Hy Lạp cổ đại và trung cổ. Các đoạn rời rạc của các tác phẩm Homer được ghi lại trong gần một nửa của tất cả các tác phẩm văn chương Hy Lạp được phát hiện trên giấy cói.

Hai tác phẩm nổi tiếng, I-li-át và Ô-đi-xê, của ông được ghi chép lại chính thức vào thế kỷ thứ 6 TCN theo lệnh của Bạo chúa (Tyrannos) Athena lúc bấy giờ là Peisistratos. Tác phẩm Iliad có nội dung dựa trên các thần thoại về Cuộc chiến thành Troy. Còn nội dung của Ô-đi-xê là trường ca kể về cuộc phiêu lưu của nhân vật chính Ô-đi-xê và hành trình trở về quê hương gian nan của người anh hùng này.

2/ Tác phẩm Ô-đi-xê

1. Hoàn cảnh ra đời

Tác phẩm Ô-đi-xê ra đời vào thời kì con người Hi Lạp chuẩn bị mở rộng địa bàn hoạt động ra biển cả. Chiến tranh giữa các bộ lạc đã qua đi rồi giờ đây chỉ còn là những kí ức. Trong sự nghiệp khám phá và chinh phục thế giới biển cả bao la và bí hiểm đó ngoài lòng dũng cảm đòi hỏi phải có những phẩm chất cần thiết như thông minh, tỉnh táo, mưu chước, khôn ngoan. Hình tượng Ô-đi-xê chính là lí tưởng hóa sức mạnh của trí tuệ Hy Lạp.

Mặt khác, Ô-đi-xê ra đời khi người Hy Lạp sắp bước vào ngưỡng cửa của chế độ chiếm hữu nô lệ. Từ đây con người giã từ chế độ công xã thị tộc với lối sống thành từng cộng đồng để thay vào đó tổ chức gia đình. Hôn nhân một vợ một chồng xuất hiện. Nó đòi hỏi tình cảm quê hương, gia đình gắn bó, thủy chung giữa vợ chồng. Hô-me-rơ là một thiên tài dự đoán cho thời đại ông. Cả hai ý tưởng trí tuệ và tình yêu thủy chung được thể hiện trong đoạn trích “Uy-lít-xơ trở về”.

2. Tóm tắt nội dung

Câu chuyện được kể từ thời điểm Odysseus sau mười năm rời thành Troia vẫn chưa thể đặt chân lên quê hương và đang bị nữ thần Calypso cầm giữ. Các thần cầu xin Zeus cho Odysseus được sum họp với gia đình. Zeus đồng ý. Trong khi đó, tại quê nhà, Penelope, vợ của Odysseus, phải đối mặt với nhiều người quyền quý trong vùng đến cầu hôn. Telemachus, con trai Odysseus và Penelope, phải đương đầu với chúng để bảo vệ gia đình. Tuân lệnh Zeus, nữ thần Calypso buộc phải để Odysseus rời đảo. Sau vài ngày, gặp bão lớn, chiếc bè bị đánh tan tác, Odysseus may mắn dạt vào xứ sở của vua Alkinoos. Tại đây, Odysseus kể lại cuộc hành trình phiêu lưu mạo hiểm trong suốt 10 năm qua các miền đất lạ cho nhà vua. Được Alkinoos giúp đỡ, Odysseus trở về quê hương sau 20 năm xa cách nơi chàng phải đối mặt với hiểm nguy mới là bọn cầu hôn xảo quyệt, hung hãn đang rắp tâm chiếm đoạt tài sản gia đình. Odysseus cùng con trai và gia nhân trung thành lập mưu trừng trị bọn chúng. Cuộc sống mới bắt đầu trên xứ sở Ithaca.

3/ Văn bản "Uy-lít-xơ trở về"

1. Bố cục

– Đoạn 1 (từ đầu đến … xác chết của bọn cầu hôn và người giết chúng.) Ơ-ri-clê và Pê-nê-lốp: Ơ-ri-clê báo tin và thuyết phục Pê-nê-lốp.

– Đoạn 2 (từ Nói xong, nàng bước xuống lầu cho đến …con cũng không phải là người kém gan dạ) Tê-lê-mác, Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp: Thái độ của Tê-lê-mác đối với việc mẹ không chịu thừa nhận cha.

– Đoạn 3 (phần còn lại) Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ: Pê-nê-lốp thử thách Uy-lít-xơ, vợ chồng đoàn tụ.

2. Sơ lược

Trích từ Khúc ca thứ XXII của sử thi Ô-đi-xê.

Uy-lít-xơ sau 20 năm ròng rã xa cách quê hương xứ sở để hạ thành Tơ-roa và trôi dạt lênh đênh, cuối cùng cũng được đoàn tụ lại cùng người vợ Pê-nê-lốp yêu thương. Đoạn trích đã thể hiện rõ vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất cao đẹp của Uy-lít-xơ cùng với vợ của mình là Pê-nê-lốp.

3. Câu hỏi SGK

  1. Trên
  2. Tâm trạng của Uy-lít-xơ khi trở về gặp lại vợ mình biểu hiện như thế nào? Cách ứng xử của chàng bộc lộ phẩm chất gì?

Khi Pê-nê-lốp không chịu nhận chàng là người chồng Uy-lít-xơ, chàng vẫn mỉn cười bảo : “Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy ?’’. Điều này thể hiện sự nhẫn nại, bình tĩnh của Uy-lít-xơ, đồng thời thể hiện niềm tin mãnh liệt của chàng đối với vợ. – Uy-lít-xơ bàn với con là Tê-lê-mác việc đối phó với những gia đình quyền quý có người bị chàng giết. Điều này thể hiện sự khôn ngoan, sáng suốt của Uy-lít-xơ. – Uy-lít-xơ hờn dỗi khi Pê-nê-lốp mãi vẫn không nhận ra chàng và chàng khóc khi nghe vợ giải thích nguyên nhân. Điều đó chứng tỏ Uy-lít-xơ là một người rất giàu tình cảm và rất yêu vợ.

3. Vì sao Pê-nê-lốp “rất đỗi phân vân” ? Việc chọn cách thử “bí mật chiếc giường’’ cho thấy vẻ đẹp gì về trí tuệ và tâm hồn của chàng ?

Pê-nê-lốp “rất đỗi phân vân’’ khi gặp Uy-lít-xơ vì nàng “luôn lo sợ có người đến đây, dùng lời đường mật để đánh lừa. Vì đời chàng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác…’’. Việc chọn thử thách về “bí mật của chiếc giường’’ cho thấy sự thận trọng, khôn ngoan và sự kiên trinh, chung thủy của Pê-nê-lốp. Nàng đã chọn phép thử này vì chỉ có nó mới là bằng chứng xác thực nhất, là dấu hiệu đáng tin cậy nhất để nhận ra chồng. Bí mật chiếc giường có thể giải tỏa nhiều mối nghi ngờ. Trước hết, để Pê-nê-lốp biết được người xưng danh Uy-lít- xơ là thật hay là giả. Thứ hai, chi tiết đó sẽ khẳng định sự thủy chung của Pê-nê-lốp đối với chồng, bởi vì sau hai mươi năm thì bí mật về chiếc giường cũng chỉ có nàng và chồng biết mà thôi. Sự thận trọng của Pê-nê-lốp cũng bởi vì tính chất phức tạp của thời đại, nàng phải luôn luôn trong tâm thế đối phó với những mưu mô đang đe dọa, rình rập gia đình nàng.

4. Cách kể của Hô-me-rơ qua đoạn trích tạo ra hiệu quả gì ? Biện pháp nghệ thuật nào thường được sử dụng để khắc họa phẩm chất nhân vật ? Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng ở khổ cuối của đoạn trích (“Dịu hiền… buôn rời’’).

Cách kể của Hô-me-rơ qua đoạn này thể hiện đặc trưng của phong cách kể chuyện sử thi, vừa chậm rãi, vừa tỉ mỉ, trang trọng. Ở đoạn trích này Pê-nê-lốp nghi ngờ, không tin Uy-lít-xơ là người chồng xa cách của mình. Do đó kiểu kể chuyện tỉ mỉ này tạo ra những đoạn đối thoại mang hình thức thăm dò, thử phản ứng từ đó dẫn tới bản chất của vấn đề. Để khắc họa bản chất nhân vật, Hô-me-rơ thường sử dụng hình thức gọi nhân vật bằng cụm danh – tính từ rất phổ biến trong sử thi Hi Lạp (ví dụ : Pê-nê-lốp thận trọng, nhũ mẫu Ơ-ri-clê hiền thảo, Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại…). Điều này tạo cho sử thi phong cách riêng, hấp dẫn, đặc sắc. Biện pháp nghệ thuật được Hô-me-rơ sử dụng ở khổ cuối đoạn trích (“Dịu hiền’’ … “buông rời’’) là biện pháp so sánh có đuôi dài, ở đây, Hô-me-rơ đã ví niềm vui tái ngộ của Pê-nê-lốp với Uy-lít-xơ cũng giống như hạnh phúc của con người thoát nạn biển khơi. Vế so sánh được nói trước, dài hơn với hình ảnh cụ thể, sinh động, như cái đòn bẩy nghệ thuật nhằm tôn lên sự việc được so sánh, tạo hiệu quả đặc biệt cho câu văn. Nếu như trong tiểu thuyết hiện đại, tâm lí nhân vật thường được diễn tả trực tiếp, với cái nhìn từ bên trong thì ở đây, bút pháp sử thi lại diễn tả tâm lí nhân vật thông qua hành động, cách ứng xử, thái độ từ những biểu hiện bên ngoài, với cái nhìn từ bên ngoài. Tâm trạng phân vân, đầy nghi hoặc của Pê-nê-lốp được diễn tả bằng những chi tiết nhờ ngòi bút tài tình của Hô-me-rơ.

4/ Phân tích và cảm nhận nhân vật

1. Nàng Pê-nê-lốp

– Chờ đợi chồng hai mươi năm trời dằng dẵng + Tấm thảm ngày dệt, đêm tháo để làm kế trì hoãn sự thúc bách của bon cầu hôn. + Cha mẹ đẻ của nàng thúc giục tái giá.

– Nàng không bác bỏ ý của nhũ mẫu mà thần thánh hoá sự việc: “Đây là một vị thần đã giết bọn cầu hôn danh tiếng, một vị thần bất bình vì sự láo xược bất kham và những hành động nhuốc nhơ của chúng… nên chúng phải đền tội đó thôi”. Còn về phần Uy-lít-xơ thì ở nơi đất khách quê người chàng đã hết hy vọng trởi lại đất A-cai, chính chàng cũng nghĩ mình đã chết rồi. Thái độ ấy thể hiện nàng trấn an nhũ mẫu và cũng là cách để tự trấn an mình.

– Tâm trạng của nàng “rất đỗi phân vân” nó biểu hiện ở dáng điệu cử chỉ, trong sự lúng túng tìm cách ứng xử: “Không biết nên đứng xa xa hay nên lại gần ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn”. Nàng dò xét, suy nghĩ, tính toán mung lung nhưng cũng không giấu được sự bàng hoàng xúc động: “Ngồi lặng yên trên ghế hồi lâu, lòng sửng sốt, khi thì đăm đăm âu yếm nhìn chồng, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ áo quần rách mướp”.

– Nàng Pê-nê-lốp xúc động nói với con trai mình: “Lòng mẹ kinh ngạc quá chừng. Mẹ không sao nói được một lời, mẹ không thể hỏi han, cũng không thể nhìn thẳng mặt người. Nếu quả thật đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ đã trở về thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận ra nhau một cách dễ dàng, vì cha và mẹ có những dấu hiệu riêng chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết”. Nàng nói với con trai nhưng cũng là nói với Uy-lít-xơ đang ngồi trước mặt. \=> Cách nói thật tế nhị, khéo léo. Nàng giấu đi sự thử thách, nhưng chắc chắn tâm trí nàng liên tưởng tới “dấu hiệu riêng ấy- chiếc giường”.

– Pê-nê-lốp là con người trí tuệ, thông minh và tỉnh táo biết kìm nén tình cảm của mình. Nàng còn là con người thận trọng. Với nàng lúc này thận trọng không thừa. Nàng là con người tỉnh táo mà tế nhị, kiên quyết mà thận trọng.

– Nghệ thuật miêu tả của Hô-me-rơ không hề mổ xẻ tâm lý nhân vật mà đưa ra dáng điệu, cử chỉ, cách ứng xử, xây dựng đối thoại. Lời nói mang tính lập luận, song rất chất phác, hồn nhiên của người Hi Lạp thời cổ.

Là một người vợ thuỷ chung, kiên trinh đợi chờ chồng suốt 20 năm trời khi chồng đi chinh chiến. Nàng đã tìm đủ mọi cách để trì hoãn (chuyện dệt bức thảm, chuyện nêu điều kiện bắn xuyên 12 vòng tròn trên 12 lưỡi rìu) để khước từ bọn cầu hôn.

– Gặp lại Uylitxơ tại cung điện của mình sau sự kiện “người hành khất” đã bắn xuyên 12 lưỡi rìu và giết chết 108 vị cầu hôn. Nói với nhũ mẫu, nàng thận trọng cho rằng người vừa bắn xuyên 12 lỗ rìu là “một vị thần” còn “Uylitxơ đã chết rồi”. Nhũ mẫu nói về “cái sẹo” do lợn lòi húc ở chân Uylitxơ thì nàng vẫn thận trọng cho đó là “ý định huyền bí của thần linh bất tử”.

Sau khi xuống lầu, Pênêlốp băn khoăn “không biết nên đứng xa xa hỏi chuyện….” hay nên lại gần, ôm lấy đầu, cầm lấy tay người mà hôn, khi thì nàng lại “đăm đăm nhìn chồng”, khi lại không nhận ra chồng dưới bộ quần áo rách mướt.

– Khi bị con trai trách mẹ là “tàn nhẫn”, “độc ác quá chừng”, “lòng dạ mẹ rắn hơn cả đá” thì Pênêlốp “kinh ngạc quá chừng” và tin rằng, nàng và Uylitxơ sẽ nhận ra nhau qua “những dấu hiệu riêng” chỉ có hai người biết còn người ngoài không ai biết hết. Thật là thận trọng, thông minh và giàu niềm tin.

– Uylitxơ trách “nàng thật là người kì lạ”, các thần đã ban cho nàng “một trái tim sắt đá”… Lúc bấy giờ Uylitxơ vừa tắm và thay quần áo xong “đẹp như một vị thần”. Nàng ra lệnh cho nhũ mẫu “Khiêng giường ra khỏi gian phòng vách tường kiên cố… “để thử chồng”… Khi nghe Uylitxơ nói lên chân giường là một gốc cây cảm lảm không thể nào di chuyển được thì Pênêlốp “bủn rủn cả chân tay”,… “chạy ngay lại, nước mắt chan hoà, ôm lấy cổ chồng, hôn lên trán chồng”. Hai mươi năm ấy biết bao nhiêu tình! Pênêlốp nhìn chàng không chán mắt và hai tay trắng muốt của nàng cứ ôm lấy cổ chồng không lỡ buông rời”.

Tóm lại, Pênêlốp là một người vợ thuỷ chung rất thận trọng như nàng nói “vì đời chẳng thiếu gì người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác”. Pênêlốp rất thông minh, kín đáo và bình tĩnh làm chủ cảnh ngộ. Nàng là một phụ nữ, một người vợ rất giàu tình cảm khi nhận ra Uylitxơ đích thực là chồng mình.

2. Uy-lít-sơ

– Với kì mưu “con ngựa gỗ thành Tơroa” chàng là một người trần mà mưu trí “sánh ngang thần linh”. Mười năm trời lênh đênh biển cả, trải qua bao gian nguy, Uylitxơ là hiện thân của lòng dũng cảm, mưu trí và có nghị lực phi thường.

– Là một con người giàu lòng yêu quê hương, gia đình, vợ con.

– Lập mưu giết bọn cầu hôn chứng tỏ “cha vẫn là người nổi tiếng khôn ngoan, không một kẻ phàm trần nào sánh kịp” như Têlêmác đã nói.

– Sau khi nghe Pê-nê-lốp nói với Tê-lê-mác, Uy-lít-xơ vẫn nhẫn nại mỉm cười nói với con trai : “Tê-lê-mác, con ! Đừng làm rầy mẹ, mẹ còn muốn thử thách cha ở tại nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra, chắc chắn như vậy…” ; thì còn là nói với chính Pê-nê-lốp. Như vậy, khi nói những lời này, Uy-lít-xơ đã nhận ra ý định thử thách của Pê-nê-lốp và mặc dù chưa biết sự thử thách đó là gì nhưng chàng vẫn sẵn sàng chấp nhận. Có thể nói, Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ đã ngầm đối thoại với nhau. Cái “mỉm cười” của Uy-lít-xơ cho thấy chàng là người hết sức bản lĩnh, biết kìm chế tình cảm để có được sự sáng suốt, chín chắn. Đó là cái “mỉm cười” của người hiểu rõ khả năng của mình, tin vào mình, cũng là cái cười thấu hiểu và độ lượng đối với vợ và con trai mình.

– Bình tĩnh, rất giàu tình cảm. Sự thật vốn không ưa trang trí, hãy kiên nhẫn đợi chờ để sự thật nói lên sự thật! Uylitxơ để cho “cái chân giường nói lên sự thật”. Và khi Pênêlốp nhận ra chàng đích thực là chồng nàng thì Uylitxơ “ôm lấy vợ xiết bao thân yêu, người bạn đời chung thuỷ của mình, mà khóc dầm dề”. Chính câu trả lời của chàng là chìa khoá vàng mở cánh cửa trái tim nàng Pê-nê-lốp xinh đẹp, nàng “bủn rủn cả chân tay”, nàng bèn chạy lại nước mắt chan hoà ôm lấy cổ chồng. Đây chính là những giọt nước mắt hạnh phúc của hai trái tim yêu đương. Uy-lit-xơ cảm thông và trân trọng người vợ đáng thương của mình : “Uy-lit-xơ càng thêm muốn khóc. Chàng ôm lấy người vợ xiết bao yêu thương, người bạn đời chung thuỷ của mình ”.

\=> Uy-lít-xơ không chỉ là hình ảnh lí tưởng về một anh hùng chiến trận, về một người chồng, một người cha dũng cảm, mưu trí, độ lượng, thuỷ chung, chàng còn là người anh hùng của trí tuệ trong hành trình tìm lại hạnh phúc riêng tư.

5/ Nhận xét chung

Đoạn trích là cảnh gặp gỡ của hai vợ chồng sau hai mươi năm xa cách nhưng nó diễn ra không bình thường mà trở thành một cảnh nhận mặt. Trong cảnh ấy các nhân vật đã thử thách lẫn nhau để tìm về hạnh phúc. Câu chuyện là bài ca về vẻ đẹp trí tuệ và khát vọng hạnh phúc gia đình của người Hi Lạp khi chuyển từ chế độ thị tộc sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Nó nhắc nhở ta tình cảm gia đình bao giờ cũng rất cao quý, thiêng liêng và đề cao khẳng định sức mạnh của tâm hồn, trí tuệ con người.

Đồng thời, đây là màn kịch có ý nghĩa tố cáo chiến tranh sâu sắc, nguyên nhân của những cuộc chia li tan nát. Việc Pê-nê-lốp không nhận ra chồng mình là một bản cáo trạng nghiêm khắc đối với cuộc chiến tranh như cuộc chiến thành Tơ-roa.

Hô-me-rơ thể hiện thiên tài về tư tưởng và nghệ thuật qua tác phẩm. Xây dựng nhân vật Ô-đi-xê thành nhân vật kết tinh được mọi phẩm chất cao đẹp nhất mà người Hi Lạp đang khát khao vươn tới.

* Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

– Sử dụng định ngữ chỉ phẩm chất nhân vật. VD: “Uy-lít-xơ cao quý và nhẫn nại”, “Pê-nê-lốp thận trọng” (đây là nghệ thuật tiêu biểu trong sử thi)

– So sánh có đuôi dài, nhiều tầng bậc để miêu tả tâm lý nhân vật (đặc biệt là đoạn miêu tả sự hạnh phúc của Pê-nê-lốp khi gặp lại chồng mình)

NT chung: Kể chuyện và chọn chi tiết đặc sắc, độc đáo. Sử dụng định ngữ chính xác và hiệu quả.

6/ Câu hỏi mở rộng cho các pẹn's

Có thể so sánh giữa cách miêu tả tâm lí nhân vật giữa sử thi Đam Săn của Việt Nam và sử thi cổ điển Ô-đi-xê của Hi Lạp qua hai đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây và đoạn trích Uy-lít-xơ trở về để thấy được sự giống nhau và khác nhau về bút pháp sử thi giữa hai tác phẩm, hai truyền thống văn học, qua đó nắm được những đặc điểm tiêu biểu của bút pháp sử thi :

– Giống nhau :

+ Dùng cái bên ngoài hay trực tiếp diễn tả từ bên trong tâm lí nhân vật ? Ví dụ ?

+ Có sử dụng lối miêu tả cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết không ? Những đặc điểm miêu tả được lí tưởng hoá như thế nào ? Ví dụ ?

– Khác nhau :

+ Những chi tiết dùng để diễn tả tâm lí nhân vật trong trích đoạn sử thi Đam Săn có gì khác so với những chi tiết dùng để diễn tả tâm lí nhân vật trong trích đoạn sử thi Ô-đi-xê ?

+ Chất dân gian trong sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ ở trích đoạn Đam Săn khác như thế nào cách sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ trau chuốt, trang trọng, cao nhã trong trích đoạn Ô-đi-xê ?