Nguyên nhân sao nghề đúc đồng vào huế

Địa điểm: Làng Đúc đồng Huế nằm ở ven bờ nam sông Hương, đoạn từ cầu Giã Viên lên phía Long Thọ; trên địa bàn phường Phường Đúc và một phần của phường Thủy Xuân (thôn Hạ 2 và thôn Thượng 4), thành phố Huế. Làng nghề hiện nay còn 61 cơ sở sản xuất, trong đó Phường Đúc có 35 hộ, 01 hợp tác xã và 01 Doanh nghiệp Tư nhân; phường Thủy Xuân có 23 hộ, 01 hợp tác xã. 

Làng Đúc đồng ở Huế ra đời có nguồn gốc từ tổ chức của những thợ thuyền cùng nghề Đúc thời Chúa Nguyễn, từ đầu thế kỷ 17. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn - Kinh Nhơn, thủy tổ của nghề này là cụ Nguyễn Văn Lương, quê làng Đồng Xá, Siêu Loại (tỉnh Bắc Ninh ngày nay), khi xây dựng Huế thành Kinh đô, các chúa Nguyễn đã trưng tập thợ khéo cả nước về đây làm những công trình, vật dụng phục vụ nhu cầu của cung đình. Làng Đúc đồng ở Huế xưa kia là làng Dương Xuân, hầu hết dân làng làm nghề Đúc đồng nên từ lâu quen gọi là Phường Đúc (hay Phường thợ đúc). Phường Đúc gồm có 5 xóm là: Trường Đồng, Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Giang Dinh, Giang Tiền nhưng chỉ có Kinh Nhơn và Bổn Bộ là hai làng nghề đúc đồng lớn nhất và có danh tiếng.

Rất nhiều sản phẩm của người thợ đúc đồng Phường Đúc khi xưa đã trở thành những kiệt tác di sản trong kho tàng văn hóa vật thể kinh thành Huế như: Vạc đồng ở Đại Nội (1659-1684), Chuông chùa Thiên Mụ (1710), Cửu Đỉnh đặt trước Thế Miếu (1835-1804), Cửu Vị Thần Công đặt trước Ngọ Môn (1803-1804), Chuông chùa Diệu Đế (1846) và rất nhiều các vật dụng thờ cúng bằng đồng từ “trong cung ra ngoài nội” ở Huế. Các chùa ở Huế cũng có rất nhiều tượng phật bằng đồng với niên đại thuộc đầu thế kỷ XX, gần hơn là tượng danh nhân Phan Bội Châu  cao gần 4m đặt ở khu lưu niệm Phan Bội Châu - Huế qua bàn tay tài hoa của những nghệ nhân và người thợ Phường Đúc (1974). Như vậy, có thể thấy rằng trải qua hơn 300 năm hình thành và phát triển, với những biến cố của kinh thành Huế và thăng trầm của lịch sử, những người thợ đúc đồng Huế vẫn truyền đời giữ lửa nghề cho đến hôm nay.

Các nghệ nhân hiện nay ở phường Phường Đúc và phường Thủy Xuân cũng rất tài hoa và khéo léo không kém gì ông cha đã cho thấy sự phát triển liên tục của làng nghề cũng như sự liên tục ở đỉnh cao về kỹ thuật và nghệ thuật của làng Đúc Huế. Tiêu biểu là các nghệ nhân Nguyễn Văn Sinh, Nguyễn Văn Viện, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Trai, Nguyễn văn Tuệ, Lê Văn Sơn, Nguyễn Văn Thuận B, Nguyễn Trường Sơn...

Ngoài các sản phẩm truyền thống đặc trưng (đồ thờ cúng) như: Lư đồng, bát hương, tam sự, ngũ sự, chuông, cồng, chiêng… Các sản phẩm lưu niệm tinh xảo bằng đồng cũng được sản xuất phục vụ người yêu văn hóa trưng bày và khách du lịch như: Tượng danh nhân, trống đồng, bình hoa, các biểu tượng văn hóa tiêu biểu của Huế và đất nước.

Nét nổi bật nhất là những tác phẩm nổi tiếng mang đậm tính nghệ thuật, sống mãi với thời gian của lớp hậu duệ sau này như tượng Trần Hưng Đạo cao 10,2m, nặng 21,6 tấn đặt tại công viên Vị Hoàng (Thành phố Nam Định), tượng Như Lai cao 4,3m đặt tại chùa Kim Thành – Plây Cu (Gia Lai), tượng Bác Hồ đặt tại làng Kim Liên (Nghệ An) và thành phố Huế, tượng Chủ tịch Tôn Đức Thắng tại An Giang, tác phẩm Trống đồng đặt tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)... Đặc biệt mới đây, nghệ nhân Nguyễn Văn Sinh và các học trò của ông đã lập kỷ lục trong nghề đúc đồng từ xưa đến nay ở Việt Nam, khi đúc thành công quả chuông Đại Hồng Chung có kích thước khổng lồ cao 5,5m, đường kính 3,7m, nặng hơn 30 tấn, được xem là quả chuông lớn nhất Đông Nam Á.

Chính từ những nét tinh hoa văn hóa đặc sắc của nghề Đúc hội tụ nơi bàn tay tài hoa của người thợ đúc đồng Huế mà từ lâu, Phường Đúc và phường Thủy Xuân đã trở thành một địa chỉ tham quan du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước mỗi khi đến Huế. Nhiều du khách nước ngoài khi thăm Đại Nội, Hoàng cung, tận mắt nhìn, tận tay sờ lên những hình đúc nổi tinh xảo ở Cửu Đỉnh, Cửu Vị Thần công… đều không tin đó là sản phẩm của người thợ đúc đồng Huế. Nhưng đến khi được tham quan, chứng kiến thực tế những lò đúc ở phường Phường Đúc, phường Thủy Xuân họ mới thực sự thán phục tài nghệ và chiều sâu nghệ thuật của người thợ đúc đồng Huế.

Với bề dày lịch sử phát triển, đi cùng là những tác phẩm để lại dấu ấn lịch sử, làng Đúc đồng Huế xứng danh là một làng nghề truyền thống cần được bảo tồn và phát triển. Bởi, đây không chỉ là một địa chỉ thú vị cho khách du lịch, cho những nhà đầu tư trong và ngoài nước mà còn là nguồn động viên tích cực cho việc nâng cao tay nghề cũng như tạo hưng phấn, lòng tự hào về nghề của những người thợ đúc đồng Huế ngày nay.

Làng nghề Đúc đồng Huế được UBND tỉnh Thừa Thiên Huế công nhận là làng nghề truyền thống (Quyết định số 725/QĐ-UBND ngày 16/4/2013). 

Nằm bên bờ Nam sông Hương, cách kinh thành Huế chừng 3 cây số về phía Tây Nam có một làng nghề đúc đồng truyền thống lừng danh. Đó chính là Phường Đúc, nơi đúc nên những tuyệt tác đồ đồng được công nhận là bảo vật quốc gia có một không hai của Việt Nam.

Bộ Cửu đỉnh, Bảo vật Quốc gia của Huế. Ảnh: Thái Hoàng

Theo sách Ô Châu cận lục của tiến sĩ Dương Văn An viết năm 1553, vào đầu thế kỉ 17, tức dưới thời chúa Nguyễn, làng nghề đúc đồng này thuộc địa phận làng Dương Xuân, tổng Vĩ Dạ, huyện Hương Trà, phủ Triệu Phong. Đến thời các vua nhà Nguyễn, cụ thể là dưới triều Tự Đức (1847-1883) làng Dương Xuân được tách thành 2 làng là Dương Xuân Thượng và Dương Xuân Hạ. Nay làng đúc đồng Huế nằm trên địa bàn phường Phường Đúc và một phần của phường Thủy Xuân, Thành phố Huế.

Nguyên nhân sao nghề đúc đồng vào huế
Tạo hoa văn trên khuôn đúc. Ảnh: Thái Hoàng

1. Nói về xuất xứ cũng như cái tên của làng nghề này ngẫm cũng có đôi điều thú vị. Bởi theo như gia phả của dòng họ Nguyễn ở làng đúc đồng Phường Đúc thì thủy tổ của nghề đúc đồng nơi đây là cụ Nguyễn Văn Lương, quê làng Đồng Xá, Siêu Loại (tỉnh Bắc Ninh ngày nay).

Vào thế kỉ 17, khi chọn Huế làm nơi xây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn đã trưng tập thợ khéo cả nước, trong đó có thợ đúc đồng về đây phục vụ việc xây dựng các tư dinh, phủ đệ, đúc khí giới, tiền xu và sản xuất vật dụng phục vụ nhu cầu của phủ chúa.

Thời bấy giờ, dân làm nghề đúc từ các nơi kéo về tập trung sinh sống, hành nghề thành hội thành phường ở làng Dương Xuân nên dân trong vùng quen gọi là “Phường Đúc”, tức phường thợ đúc, rồi lâu dần thành tên gọi.

Thời ấy, Phường Đúc có 5 xóm nghề gồm: Trường Đồng, Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Giang Dinh, Giang Tiền. Trong đó, Kinh Nhơn và Bổn Bộ là hai xóm có nghề đúc đồng lớn nhất và danh tiếng nhất. Từ đó về sau đến đời các vua nhà Nguyễn, nghề đúc đồng ở Phường Đúc càng có cơ hội phát triển mạnh thêm.

Có thể nói, thời nhà Nguyễn nghề đúc đồng ở Huế được xem là phát triển rực rỡ và huy hoàng nhất. Rất nhiều sản phẩm của người thợ đúc đồng Phường Đúc thời ấy nay đã trở thành những kiệt tác di sản trong kho tàng văn hóa vật thể của kinh thành Huế, trong đó có những kiệt tác đã được nhà nước công nhận là Bảo vật Quốc gia như: Bộ vạc đồng thời chúa Nguyễn được đúc từ năm 1659 đến 1684, quả đại hồng chung chùa Thiên Mụ được đúc vào năm 1710, bộ Cửu đỉnh (9 đỉnh lớn) đặt trước Thế Miếu được đúc từ năm 1835 đến 1837 và bộ cửu vị thần công (9 khẩu đại pháo) đặt trước Ngọ Môn được đúc từ năm 1803 đến 1804.

Các nghệ nhân làng nghề Phường Đúc xứ Huế nổi tiếng với kĩ thuật đúc chuông đồng có âm hay, dáng đẹp. Ảnh: Thái Hoàng

2. Sản phẩm đúc đồng xứ Huế nổi tiếng tinh xảo và bền đẹp bất chấp thời gian. Ví như bộ cửu đỉnh đúc vào năm 1835 dưới triều vua Minh Mạng được giới nghiên cứu đánh giá không chỉ là biểu tượng uy quyền của nhà vua mà còn được ví như một bộ "Dư địa chí”, bộ “Bách khoa thư” về nước Việt Nam hồi cuối thế kỉ 19 - đầu thế kỉ 20.

Tổng thể 162 hình chạm khắc tinh xảo trên cửu đỉnh mô tả các vì tinh tú, hiện tượng thiên nhiên và các thắng cảnh, sản vật tiêu biểu của nước Việt ta thời ấy như sông núi, biển đảo, cỏ cây, chim muông, hoa lá, xe cộ, thuyền bè, vũ khí... hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên, sông núi, đất trời Việt Nam gấm vóc, tươi đẹp, hùng cường.

Điều đó khiến cho người đời sau không những trầm trồ thán phục về tài nghệ của các bậc nghệ nhân xưa mà còn tự hào về tầm nhìn xa trông rộng của các bậc tiền nhân trong việc trao truyền các giá trị sử liệu cho hậu thế.

Vạc đồng thời Nguyễn trong Hoàng Thành, Huế. Ảnh: Thái Hoàng

Ngày nay, nghề đúc đồng truyền thống ở Huế đã bước sang một giai đoạn phát triển mới với kĩ thuật và công nghệ cao hơn. Các nghệ nhân đúc đồng ở phường Phường Đúc hiện nay đã cho thấy tay nghề và sự tài hoa của họ không hề thua kém các bậc cha ông đi trước. Nhiều lớp nghệ nhân ra đời và trở nên nổi tiếng khắp trong Nam ngoài Bắc và cả ở nước ngoài như các nghệ nhân Nguyễn Văn Sính, Nguyễn Văn Viện, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Đệ, Nguyễn Văn Trai, Nguyễn Văn Tuệ, Nguyễn Văn Niệm, Lê Văn Sơn...

3. Ngoài các sản phẩm truyền thống nổi tiếng xưa nay như chuông, tượng, lư, đèn... các nghệ nhân Phường Đúc hiện nay đã nghiên cứu đúc thành công nhiều sản phẩm độc đáo, có giá trị nghệ thuật lẫn kinh tế cao. Điển hình như tượng danh tướng Trần Hưng Đạo cao 10,2m, nặng 21,6 tấn đặt tại công viên Vị Hoàng, TP.Nam Định; tượng Như Lai cao 4,3m đặt tại chùa Kim Thành, TP.Plây Cu, tỉnh Gia Lai; trống đồng đặt tại Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)...

Đặc biệt, nhân kỉ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, nghệ nhân Nguyễn Văn Sính và các học trò đã lập kỉ lục khi đúc thành công quả đại hồng chung cho chùa Bái Đính ở Ninh Bình với kích cỡ khổng lồ cao 5,5m, đường kính 3,7m, nặng 36 tấn, được xem là quả chuông lớn nhất Đông Nam Á.

Hoa văn tinh xảo trên nòng một trong số những khẩu đại bác trong bộ Bảo vật Quốc gia Cửu vị thần công đặt trước cửa Ngọ Môn, Huế. Ảnh: Thái Hoàng

Hiện nay, ở phường Phường Đúc mộ và nhà thờ ông tổ nghề đúc đồng đã được nhà nước xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia. Toàn phường hiện có khoảng 60 hộ làm nghề đúc đồng, thu hút chừng 300 lao động làm việc thường xuyên, sản phẩm không chỉ có chỗ đứng vững chắc ở thị trường trong nước mà đã xuất đi được nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal, đem lại tổng doanh thu gần 10 tỉ đồng/năm (khoảng hơn 400.000 USD).

Khuôn đúc trống đồng cỡ đại được đắp bằng đất sét và nhiều loại phụ gia đặc biệt khác nhau. Ảnh: Thái Hoàng Sản phẩm tượng Phật đồng nghìn tay nghìn mắt của làng nghề đúc đồng Phường Đúc, Huế. Ảnh: Thái HoàngMột khẩu đại bác bằng đồng trong bộ Bảo vật Quốc gia Cửu vị thần công đặt trước cửa Ngọ Môn, Huế. Ảnh: Thái HoàngÔng Lê Trường Lưu (áo kẻ) - Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Thừa Thiên Huế - tham quan gian trưng bày sản phẩm đúc đồng truyền thống Huế tại Festival Nghề truyền thống Huế 2019. Ảnh: Thái Hoàng

Trải qua hơn 4 thế kỷ hình thành và phát triển cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử mảnh đất Cố đô, những người thợ đúc đồng tài hoa xứ Huế vẫn bền bỉ giữ lửa nghề cho đến hôm nay, làm rạng danh một làng nghề truyền thống để tiếp tục truyền đời cho hậu thế mai sau.