Nguyên nhân của việc buôn bán người
Tổ chức đưa người Xuất-Nhập cảnh trái phép là gì?Tổ chức đưa người Xuất-Nhập cảnh trái phép là việc nhập cảnh con người vào một nước khác có liên quan đến hành vi lẩn trốn thực thi luật di trú. Tổ chức đưa người Xuất-Nhập cảnh trái phép bao gồm việc đưa người nước ngoài bất hợp pháp vào nước khác cũng như việc vận chuyển và chứa chấp bất hợp pháp người nước ngoài tại đất nước đó. Buôn bán người là gì?Buôn bán người là một trong những loại tội phạm ít được biết đến nhất trên Thế giới. Theo quan điểm của cộng đồng, đây là một vấn đề xuyên quốc gia và là một loại tội phạm tiềm ẩn. Loại tội phạm này đang lan rộng khắp thế giới và đem lại lợi nhuận cao. Liên Hợp Quốc ước tính rằng mỗi năm 700.000 đến 4 triệu phụ nữ và trẻ em bị buôn bán trên toàn thế giới với mục đích ép buộc bán dâm, lao động và các hình thức bóc lột khác. Buôn bán người được ước tính lên tới 7 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Buôn bán người được định nghĩa là buôn bán tình dục trong đó hoạt động mại dâm bị ép buộc bằng vũ lực; lừa gạt hoặc cưỡng ép, hoặc người tham gia hành vi đó chưa đủ 18 tuổi; hoặc tuyển dụng, chứa chấp, vận chuyển và quản chế một người nào đó để bóc lột sức lao động hay làm dịch vụ thông qua việc sử dụng vũ lực, lừa gạt, hoặc cưỡng ép với mục đích ép buộc lao động khổ sai, để trừ nợ, gán nợ, hoặc làm nô lệ. Các dấu hiệu nhận biết nạn nhân của hành vi buôn bán người là gì?
Nếu quý vị có bất kỳ thông tin nào liên quan đến việc buôn bán người hoặc tổ chức đưa người xuất nhập cảnh trái phép đối với những người đang sống tại Hoa Kỳ hoặc có kế hoạch đến Hoa Kỳ, xin vui lòng liên hệ với văn phòng An ninh Khu vực, Chương trình điều tra của Đại sứ quán Hoa Kỳ hoặc Lãnh sự quán Hoa Kỳ gần nhất. Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Hà Nội Tổng lãnh Sự Quán Hoa Kỳ tại TP. Hồ Chí Minh Thông tin bổ sung về buôn người trái phép có thể được tìm trên trang web của Văn Phòng Điều hành và Chống Buôn Người Trái Phép của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Dự Án Polaris. nhân của buôn bán người sẽ phân thành 3 loại: Nguyên nhân xuất phát từ điểm đi của người bị buôn bán, nguyên nhân ở điểm đến và nguyên nhân trung gian. Nguyên nhân xuất phát điểm từ nơi đi liên quan đến những quyết định của cá nhân hay của gia đình họ do bị ảnh hưởng bởi mong ước có cuộc sống tốt hơn, tìm kiếm các cơ hội việc làm, và những vấn đề cá nhân như rượu chè và nghiện ma tuý. Những điều kiện ảnh hưởng đến những quyết định cá nhân như bạo lực gia đình, nhu cầu có các dịch vụ nhất định và các hình thức lao động. Nghèo đói đã buộc con người phải di cư để cải thiện điều kiện kinh tế gia đình. Phụ nữ di cư do nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhiều ước muốn, nhu cầu khác nhau nhưng hầu hết đều xuất phát từ những mong muốn bình thường nhất của người phụ nữ. Đó là mong ước có việc làm ổn định, gia đình êm ấm, hạnh phúc (Lê Thị Quý, 2000:137). Cũng giống như các nạn nhân bị buôn bán trong khu vực, hầu hết phụ nữ Việt Nam bị buôn bán sang Trung Quốc mà chúng tôi tiếp xúc là những người nghèo hoặc rất nghèo (Lê Thị Quý, 2000:80) Vì nghèo, những người phụ nữ bị buôn bán và gia đình của họ có ít sự lựa chọn nào khác cho cuộc sống sinh kế của mình. “Yếu tố nghèo đói là nguyên nhân đầu tiên thúc đẩy quá trình di cư của nông dân ra các tỉnh khác và ra nước ngoài kiếm sống”. (Lê Thị Quý, 2004:49). Cuộc sống của người nghèo luôn tiềm ẩn nguy cơ bị buôn bán Cuộc sống hiện nay của tôi vô cùng khó khăn. Hàng ngày tôi đan bồ để bán được khoảng 4.500-5.000 đồng. Số tiền này để giành mua đồ ăn cho hai đứa con, còn bản than tôi thì gặp gì ăn nấy. Cả hai bên gia đình đều nghèo nên cũng không giúp được gì thêm. Một số bạn rủ tôi đi xuống thành phố để làm việc trong các nhà chứa, cũng kiếm được khoảng 500-600.000 đồng/tháng. Tôi đã hỏi ý kiến bố mẹ chồng nhưng họ khuyên tôi không nên đi vì sợ có ngày tôi không được về để gặp lại các con tôi nữa. Tuy nhiên, nếu tôi không đi thì tôi và các con tôi sẽ lấy gì mà sống (Lê Tiêu La, 2002:14) Có nhiều gia đình xem việc con cái họ ra đi, dù đi đâu là đỡ được gánh nặng cho gia đình, hoặc ra đi mới có cơ may để lập gia đình, do vậy khi người xung quanh hoặc công an hỏi thì thường bao che và nói dối chính quyền là con cái đi buôn bán làm ăn xa” (Lê Thị Quý, 2004:49). Vì tình trạng kinh tế chật vật, khó khăn, nhiều gia đình trong lúc tuyệt vọng, dùng con mình làm vật hy sinh, bán con để trả nợ nần mà quên đi cả tình máu mủ, ruột thịt. Vì đói quá mà. Túng thiếu, nợ nần không có tiền trả. Con T nhà tôi do tôi đẻ 10 ra, tôi có quyền bán nó để trả nợ. (Lê Thị Quý, 2000:81) Sự tính toán vụ lợi, lối sống thực dụng, bị cám dỗ bởi giá trị vật chất, nên họ coi hôn nhân là phương tiện để thoát nghèo, chấp nhận lấy chồng nước ngoài núp dưới vỏ bọc “tự nguyện kết hôn” Các tài liệu cũng chỉ ra rằng thông thường phụ nữ ít bị sức ép của bố mẹ họ nhưng vì nghèo đói, tình yêu và sự tôn trọng gia đình họ ra đi với hi vọng cải thiện đời sống cho gia đình “Đức hi sinh, trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ, vai trò kinh tế của phụ nữ trong gia đình cũng được coi là một nguyên nhân khiến một số nữ thanh niên nghĩ đến việc lấy chồng ngoại để có thu nhập, báo hiếu cho cha mẹ” Một số cha mẹ trong gia đình đông con, đói nghèo, dựa vào tư tưởng báo hiếu của con cái đã đồng ý gả con cho người nước ngoài để tháo gỡ khó khăn về kinh tế. Chính vì nghèo đói, nhiều phụ nữ và trẻ em không được đi học, nhận thức của họ bị hạn chế để tránh được những mánh khóe lừa gạt của kẻ buôn người. “Trong số các em bị lừa bán không có em nào đang còn đi học, thậm chí có em chưa bao giờ được đến trường” (Lê Tiêu La, 2002:16) Chính vì nghèo, họ phải tìm mọi cách để có thu nhập, họ tìm kiếm cho mình các cơ hội, thậm chí là làm dâu nước ngoài. Phụ nữ coi việc đăng kí kết hôn “như một cuộc bán mình”, và hôn nhân ở xứ người là phương tiện để giải quyết vấn đề kinh tế hay bế tắc nghề nghiệp, bế tắc về tương lai trong cuộc sống của họ (Actinonaid, 2008:14) Việc tự nguyện kết hôn ở đây thực chất là do phụ nữ chấp nhận tự nguyện để nam giới nước ngoài đến lựa chọn họ “như lựa một món hàng” và chấp nhận cuộc hôn nhân cầu may được đổi đời ở xứ người. (Actinonaid, 2008:14). Nhiều trung tâm môi giới hôn nhân bất hợp pháp xuất hiện để đáp ứng nhu cầu này của phụ nữ. Trong những năm vừa qua công an thành phố Hồ Chí Minh đã phát thiện và ngăn chặn hàng chục vụ với hàng ngàn phụ nữ từ các tỉnh bị thu gom để người nước ngoài xem mặt chọn vợ. Phụ nữ di cư do nhiều hoàn cảnh khác nhau, nhiều ước muốn nhu cầu khác nhau nhưng hầu hết không ngoài những mong muốn bình thường nhất của người phụ nữ. Đó là mong muốn có việc làm ổn định, gia đình êm ấm, hạnh phúc. Miền “đất hứa” của chị em là thành thị, là nước ngoài (Lê Thị Quý, 2000:137). Có thể thấy rằng sự nghèo đói, thất học, thiếu việc làm dẫn đến phụ nữ và trẻ em đi tìm kiếm cơ hội việc làm như là hành động bản năng sinh tồn. Những nỗ lực của họ trong tìm kiếm công việc là điều kiện thuận lợi cho những kẻ buôn người thực hiện hành vi của mình. 11 Các yếu tố tâm lý khác như do trắc trở về tình yêu, hôn nhân, gia đình khiến việc phụ nữ mong muốn có một hạnh phúc khác ở xứ người cũng dễ biến họ thành đối tượng nhắm đến của bọn buôn người Năm 1998, khi mới 21 tuổi, đang bụng mang dạ chửa, tôi đi Trung Quốc cũng chỉ vì ức chế do bị chồng hành hạ. Cách đây 4 năm, tôi đã về quê với đứa con đầu, để lại Trung Quốc 2 đứa con sau. (Actinonaid, 2008:16) Xuất phát từ chuyện buồn của bản thân, các chị đã dễ dàng tin theo kẻ buôn người để ra đi tìm một hạnh phúc gia đình khác. Bên cạnh đó, số chị em quá lứa nhỡ thì cũng không nhỏ và các chị này cũng rất sẵn sàng ra đi vì hy vọng có thể xây dựng được hạnh phúc gia đình. (Lê Thị Quý, 2000:141) Sự đỗ vỡ trong tình yêu cũng được xem là một yếu tố dẫn đến bị buôn bán của một số phụ nữ. Nhiều cô gái sau khi “trao thân gửi phận” cho người yêu liền bị hắn “quất ngựa truy phong”. Quá xấu hổ, thất vọng và cũng không muốn để cha mẹ, gia đình phải phiền lòng, các cô đã tìm đường sang Trung quốc (Lê Thị Quý, 2000:85) Bất bình đẳng giới trong xã hội cũng được tính đến như là một nguyên nhân dẫn đến buôn bán người. Không chỉ các em gái mà ngay cả những phụ nữ đã có chồng con trong những hoàn cảnh đặc biệt bị xô đẩy cũng là nạn nhân của nạn BBPN-TE. Có lẽ không có ai lại bỏ nhà ra đi khi đang sống gia đình hạnh phúc. Những nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần cũng như việc tước đi cái quyền được học hành ở cái tuổi ăn học như các em là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng buôn bán, lạm dụng tình dục ở trẻ em gái. Có thể thấy rất rõ rằng nếu không bị đày đọa trong địa ngục gia đình thì những người phụ nữ và các trẻ em gái vì muốn thoát khỏi địa ngục này đã rơi ngay vào địa ngục của bọn buôn người. Ngoài ra, sự ăn chơi, nghiện ngập, quan niệm lạc hậu ở một số dân tộc… cũng là những nguyên nhân dẫn đến tình trạng buôn bán người. Vì quan niệm nhà nào có ma gà thì con gái không thể lấy được chồng, chính vì vậy họ phải tìm nơi mà có thể được hưởng cái quyền làm vợ làm mẹ. “Nếu ở nhà thì chả ai lấy các em tôi vì chúng lớn tuổi mà có ma gà nên nó phải tìm cách sang bên kia (Trung quốc) lấy chồng” (Lê Thị Quý, 2004:53-54) Nguyên nhân ở nơi đến có mối quan hệ chặt chẽ với mô hình kinh tế cung-cầu toàn cầu, nơi các cá nhân đáp ứng nhu cầu về tình dục thương mại như mãi dâm và khiêu dâm, và lao động không hợp pháp trong những khu vực như nhà máy, mỏ than, nhà hàng và chợ phố, và mua bán các bộ phận cơ thể. Nhu cầu đó tăng tỷ lệ với sự phát triển của hầu hết các ngành công nghiệp trên thế giới. 12 Nhu cầu cần lao động tình dục cho ngành công nghiệp tình dục của các nước láng giềng là yếu tố cầu của việc BBPNT Mại dâm là một tệ nạn mang tính toàn cầu. Kỹ nghệ tình dục đã đẩy nạn mại dâm thành một “nghề”. Đây không chỉ là “nghề” của những người nghèo mà còn là “nghề” của những nước nghèo. (Lê Thị Quý, 2000:80) Theo đánh giá của UNICEF và ECPAT, có khoảng 45.000 gái mại dâm đang làm việc ở Campuchia, trong đó có khoảng 60-65% là người Việt Nam, trong số này, 20-25% là trẻ em từ 14-18 tuổi. (C&D, World Vision, 2005:3) Tốc độ phát triển kinh tế đô thị khiến ít phụ nữ chịu sống tại nông thôn lấy chồng, bên cạnh đó, chính sách kế hoạch hóa gia đình khiến nhiều đàn ông không lấy được vợ và nam giới phải có nhu cầu chọn vợ từ các quốc gia trong đó có Việt Nam. Hiện tượng này tập trung chủ yếu ở các nước: Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Theo thống kê chưa đầy đủ thì khoảng 2/3 phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc bị bắt buộc hoặc tình nguyện làm vợ người Trung Quốc (Lê Thị Quý, 2000:115). Việc thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình kết hợp với sự phát triển kinh tế đô thị như đã đề cập ở trên khiến nhiều nam giới nghèo không lấy được vợ. Mong muốn có người để khi về già được nương tựa và có người thờ cúng khiến nhiều gia đình không có con, đặc biệt là ở vùng nông thôn nghèo Trung Quốc tìm mọi cách để có được một đứa con, kể cả việc mua chúng. Do đó, nhiều trẻ em trai bị bắt cóc và bán cho các gia đình không có con ở Trung Quốc. Bên cạnh các nguyên nhân ở trên, thiếu lao động giản đơn trong thị trường lao động và buôn bán các bộ phận trên cơ thể tại nơi đến cũng được xem là nguyên nhân dẫn đến buôn bán người. Nạn nhân được bị buôn bán để làm các công việc đơn giản như đi làm ăn xin hoặc giúp việc gia đình, lao động trong các nhà hàng. Buôn bán nội tạng để phục vụ cho các bệnh viện và cho các gia đình có nhu cầu. Nguyên nhân trung gian có liên quan đến nhân tố kinh tế-xã hội như thất nghiệp, nghèo đói, thiếu cơ hội học tập và vịêc làm, phân biệt đối xử, và bất bình đẳng giới. Chính điều này đã khiến các cá nhân trở thành nạn nhân của buôn bán người. Ngoài ra, những nguyên nhân sâu xa còn do hệ thống bảo vệ xã hội và pháp lý yếu kém cũng như nền chính trị không ổn định được thể hiện rõ qua chế độ độc tài, tham nhũng hay những xung đột vũ trang. Trên mức độ quốc tế, việc thất bại để nhận dạng, khởi tố và kết án bọn buôn người cũng như những yếu kém trong hệ thống bảo vệ biên giới quốc tế và thiếu chứng cứ pháp lý là những tác nhân có lợi cho sự gia tăng của buôn bán người. 13 Cuối cùng, mặc dù các chiến lược thông tin về Buôn bán người được phổ biến rộng rãi nhưng cộng đồng vẫn chưa có đầy đủ nhận thức về hiện tượng này. Do các nhân tố này, những nạn nhân tiềm năng không có khả năng bảo vệ chính mình và tiếp tục “tiêu thụ” sản phẩm và hưởng thụ các dịch vụ được cung cấp thông qua các hoạt động liên quan đến buôn bán người. Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, nhiều biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội nảy sinh. Tự do cạnh tranh trong sản xuất hiện nay đã xóa bỏ tình trạng bình đẳng giả tạo về thu nhập thời kì trước, nhưng nó lại làm xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo, biểu hiện rõ rệt ở sự phân hóa giữa tình trạng nghèo nàn thiếu đói, thiếu việc làm của một bộ phận dân cư này với sự tích tụ của cải, tiền bạc, thóc gạo, thậm chí cả ruộng đất và công cụ sản xuất nông nghiệp của một bộ phận dân cư khác. (Lê Thị Quý, 2000:60). Đặc biệt, ở một số khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, đời sống nhân dân còn rất hạn chế, dân trí thấp, nhiều phụ nữ, trẻ em và gia đình ở trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị lôi cuốn vào quá trình tìm kiếm công việc làm ở đô thị hay ở nước ngoài để có thu nhập, thoát nghèo. Sự trục lợi về kinh tế cũng dẫn tới nhiều cá nhân đưa chân vào ngành nghề mất nhân tính. Một số đối tượng trước đây đã là nạn nhân bị buôn bán, khi về nước lại trở thành đối tượng dụ dỗ, buôn bán phụ nữ, trẻ em. Một số cán bộ, nhân viên thoái hóa biến chất lợi dụng lĩnh vực công tác được giao đã móc nối với đối tượng ngoài xã hội thu gom trẻ em, làm giả giấy tờ nhằm hợp pháp hóa việc chuyển giao trẻ em cho người nước ngoài nhận làm con nuôi. Luật pháp và các chính sách của Nhà nước Việt Nam Đối với pháp luật quốc gia, gần đây nhất Việt Nam đã ban hành đạo luật thống nhất về phòng, chống buôn bán người. Trước đây, các quy định về phòng chống buôn bán người nằm rải rác ở các đạo luật và văn bản dưới luật như: Hiến pháp 1992, Luật Hôn nhân và gia đình và một số văn bản liên quan đến Luật hôn nhân và gia đình; Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em; Pháp luật hình sự và một số hệ thống chế tài về hành chính, dân sự khác. Các đạo luật và văn bản dưới luật được đề cập trong luật pháp và chính sách của Việt Nam đã thể hiện được sự nỗ lực trong công tác phòng chống và ngăn chặn sự gia tăng tệ nạn buôn bán người. Tuy nhiên, nhiều quan điểm của các tác giả đồng ý rằng, hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng dân sự còn nhiều bất cập, việc áp dụng các chế tài vào việc phòng, chống, bảo 14 trợ người bị buôn bán còn chưa phù hợp với thực tế, chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đấu tranh đối với loại tội phạm này và so với các chuẩn mực quốc tế về chống buôn bán người thì cũng còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến việc hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm (Bộ Tư pháp, 2008:1). Ngày 29 tháng 3 năm 2011, Quốc Hội ban hành Luật phòng, chống mua bán người, tuy nhiên trong nội dung của bộ luật chưa có khái niệm về mua bán người. Các định nghĩa về buôn bán người và xác định nạn nhân rải rác ở một số Luật chưa đủ cơ sở pháp lý để trừng trị hành vi môi giới, mua bán, bóc lột lao động và buôn bán nam giới (Ban chỉ đạo 130/CP, 2009:25). Khung hình phạt dành cho các đối tượng như cò mồi, môi giới, chủ chứa và ma cô nhìn chung còn quá nhẹ (Lê Thị Quý, 2000:209) “Pháp luật của Việt Nam còn chưa đủ mạnh để chống lại loại tội phạm này… vì thế nạn BBPN, đã phát triển như một ung nhọt mà trong đó dường như vi trùng có lúc nhờn với thuốc chữa” (Lê Thị Quý, 2000:86-87) Trong một số lĩnh vực vẫn còn tồn tại những khoảng cách, đặc biệt là những quy định liên quan đến vấn đề hồi hương, xác định, tiếp nhận, hỗ trợ nạn nhân (Bộ Tư pháp, 2006:147). Công tác hỗ trợ nạn nhân, mới chỉ dừng lại ở mức độ nguyên tắc, chưa có quy định rõ đối tượng được bảo vệ, các biện pháp bảo vệ, thủ tục yêu cầu bảo vệ. Do vậy, cần nghiên cứu ban hành, bổ sung các quy định về lĩnh vực này để bảo vệ nạn nhân từ khi tiếp nhận, điều tra, truy tố, xét xử và tái hòa nhập cộng đồng, nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho nạn nhân” (Ban chỉ đạo 130/CP, 2009:25) 5. Kết luận và giải pháp Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế với việc mở cửa và phát triển nền kinh tế thị trường đã mang lại cho Việt Nam những thành tựu mới trong phát triển, nhưng cũng kéo theo những biến động xã hội sâu sắc. Trong đó nổi lên về vấn đề buôn bán người - một hành vi vi phạm nhân quyền tác động đến an ninh, trật tự xã hội. Có nhiều khó khăn trong việc đưa ra một con số chính xác tổng quan nhất về số vụ buôn bán người nhưng có thể khẳng định rằng: tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em là một vấn đề phức tạp và hiện hữu ở Việt Nam, gia tăng trong những năm gần đây và chưa có chiều hướng giảm xuống trong thời gian tới. Trẻ em gái và phụ nữ thường bị bán để lấy chồng, hoạt động mại dâm và lao động. Một số trẻ em bị bắt cóc để bán cho các gia đình không có con ở Trung Quốc hoặc để lấy các bộ phận trên cơ thể. 15 Có nhiều nguyên nhân dẫn đến người buôn bán thực hiện hành vi của mình và người bị buôn bán trở thành đối tượng của loại tội phạm này. Nguyên nhân xuất phát điểm từ nơi đi liên quan đến những quyết định của cá nhân hay của gia đình người bị buôn bán do bị ảnh hưởng bởi mong ước có cuộc sống tốt hơn, tìm kiếm các cơ hội việc làm, hay do những vấn đề cá nhân như rượu chè và nghiện ma tuý. Nguyên nhân ở nơi đến có mối quan hệ chặt chẽ với mô hình kinh tế cung-cầu toàn cầu, nơi các cá nhân đáp ứng nhu cầu về tình dục thương mại như mãi dâm và khiêu dâm, và lao động không hợp pháp trong những khu vực như nhà máy, mỏ than, nhà hàng và chợ phố, và mua bán các bộ phận cơ thể. Nguyên nhân trung gian có liên quan đến nhân tố kinh tế-xã hội, phân tầng xã hội, bất bình đẳng giới. Ngoài ra, những nguyên nhân sâu xa còn do hệ thống bảo vệ xã hội và pháp lý. Từ thực trạng về tình hình buôn bán người nêu trên, xuất phát từ những nguyên nhân, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây nhằm giảm thiểu tệ nạn buôn bán người ở Việt Nam và bảo vệ nhân quyền cho những người phụ nữ và trẻ em nói riêng và cho con người nói chung: Đào tạo nghề tạo việc làm Tiếp tục đầu tư đào tạo ngành nghề tạo việc làm cho người dân. Đặc biệt đầu tư cho những vùng nghèo. Nhằm giảm thiểu quá trình di cư trong và ngoài nước, lấy chồng nước ngoài để cải thiện thu nhập Việc hỗ trợ vốn cần được thực hiện thông qua việc cung cấp các chương trình tín dụng. Điều này sẽ giúp tăng thu nhập của các hộ nghèo, đặc biệt là các nạn nhân hồi hương. Công tác tư vấn/truyền thông Xây dựng chương trình truyền thông quy mô rộng để nâng cao hiểu biết về các vấn đề liên quan đến buôn bán người. Nâng cao năng lực đội ngũ tuyên truyền viên, cộng tác viên tại cấp cơ sở thông qua các hoạt động bồi dưỡng, tập huấn, trao dồi kiến thức có tính đền sự bền vững trong hoạt động ở tương lai. Đa dạng hóa các hình thức truyền thông: lồng ghép nội dung buôn bán phụ nữ trẻ em vào các loại hình văn hóa quần chúng tại địa phương: biểu diễn văn nghệ, cuộc thi tìm hiểu… ; Sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống loa đài truyền thanh, truyền hình; Phát tờ rơi, cuốn tài liệu cho các gia đình. Trẻ em không đi học, kể cả trẻ em đã qua độ tuổi đến trường cần được đưa vào các hoạt động phòng chống buôn bán người. 16 |