Hồn Trương Ba, da hàng thịt cảnh 7

X Bản tin thời tiết chào buổi sáng 3 phút trước

Hướng dẫn phân tích bài Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt của Lưu Quang Vũ. Xin mời các bạn cùng tham khảo nhé. Bài hướng dẫn phân tích khá là chi tiết và rất hay.

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

Hồn Trương Ba, da hàng thịt cảnh 7

PHẦN I. HƯỚNG DẪN VIẾT MỞ BÀI HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

I. TÌM HIỂU CHUNG TÁC PHẨM HỒN TRƯƠNG, BA DA HÀNG THỊT

- Lưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng. Ông được coi là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học hiện đại.

- “Tâm nguyện và đích cuối cùng mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm trong tác phẩm của mình là tinh thần công dân trước cuộc sống xã hội, những giá trị đạo đức về hạnh phúc, cách đối nhân xử thế trong cơ chế đầy biến động. Những điều này có giá trị vĩnh cửu”. – NSƯT Đào Quang

- “Tính dự báo được cấy sâu trong nhiều kịch bản về những đề tài khác nhau, góp phần làm cho kịch Lưu Quang Vũ có sức sống bền lâu.”– Nhà phê bình văn học Ngô Thảo

- “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian, ông xây dựng một vở kịch hiện đại chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lý nhân sinh sâu sắc.

- Vở kịch viết năm 1981 và công chiếu năm 1984 trên sân khấu trong và ngoài nước.

- Văn bản trích trong SGK thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng thật cao thượng của Hồn Trương Ba.

- Vở kịch ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo, dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.

- Trương Ba là người làm vườn, có tâm hồn thanh cao, giỏi đánh cờ, bị Nam Tào bắt chết nhầm. Để sửa sai, Đế Thích khuyên cho hồn Trương Ba sống lại nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ trong thể xác anh hàng thịt làm cho hồn Trương Ba nhiễm một số thói xấu vốn không phải của bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa nhân cách và sự phiền toái do mượn xác người khác, hồn Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt, xin cho cu Tị sống lại và chấp nhận cái chết để được là chính mình. Cuối cùng, hồn Trương Ba nhập vào màu xanh của cây cỏ trong vườn, trò chuyện bên những người thân yêu.

3. Sơ đồ tư duy tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt

Hồn Trương Ba, da hàng thịt cảnh 7

PHẦN II. HƯỚNG DẪN VIẾT THÂN BÀI BÀI HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

II. ĐỌC - HIỂU TÁC PHẨM HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

Xung đột giữa hồn và xác là xung đột trung tâm của vở kịch. Đến cảnh VII, xung đột lên tới đỉnh điểm cần phải giải quyết.

- Sau mấy tháng sống nhờ trong xác hàng thịt một cách trái tự nhiên, hồn Trương Ba trở nên xa lạ với người thân và tự chán chính mình: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi!”  -> Tình huống kịch bắt đầu từ chi tiết này.

- Trong khi hồn rất muốn thoát ra khỏi thân xác kềnh càng, thô lỗ của anh hàng thịt thì xác lại muốn tồn tại mãi tình trạng này.

- Cuộc đối thoại diễn ra:

+ Xác chê hồn là cao khiết nhưng vô dụng. Xác tự hào với sức mạnh đui mù của mình, tự hào vì đã dụ dỗ, sai khiến được hồn vào những dục vọng bản năng của mình. Lí lẽ của xác thật đê tiện nhưng cũng rất thực tế khiến hồn không có cơ sở biện bác. Dường như xác đã thắng.

+ Trong cuộc đối thoại với xác, hồn ngày càng đuối lí, càng ra vẻ quát tháo, nạt nộ càng chứng tỏ sự lúng túng, bất lực.

+ Trong xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba cứ tha hóa dần. Giờ đây, dù không muốn, hồn Trương Ba cũng đã trở thành thô lỗ, vụng về, phũ phàng, lạnh lùng, tàn bạo chứ không còn hiền hậu, nhẹ nhàng như Trương Ba – người làm vườn ngày xưa. Dù có trốn chạy, hồn Trương Ba không thể phủ nhận được sự thay đổi đó.

+ Sự chống đối của hồn ngày càng yếu dần. Tuy mắng xác ti tiện nhưng hồn đành kêu trời vì phải đầu hàng tuyệt vọng.

Sự đối nghịch giữa các nhân vật xuất hiện trong tác phẩm ngày càng được biểu hiện chi tiết, cuộc đối thoại giữa các nhân vậy xuất hiện trong tác phẩm đã biểu hiện chi tiết những điều đó. Sự khác nhau đến rõ nét đã biểu hiện chi tiết những điều đó, Trương Ba thấy hiểu được giá trị to lớn, khao khát được quay trở về xác thịt của mình: “Tôi muốn được là tôi trọn vẹn”, “Là tôi trọn vẹn”, ông thấu hiểu được mối quan hệ giữa thể xác và tâm hồn của mình, sự dằng xé giữa thể xác và tâm hồn của ông đã làm cho ông đau khổ, dằn vặt. Ông muốn quay trở về đúng xác thịt của mình, sống cuộc đời của mình. Ông thấu hiểu được giá trị của cuộc sống mà mình đang trải qua. Điều ước mà Trương Ba đang mong muốn dù nhỏ bé nhưng cũng không phải dễ dàng.

Ông dám nhận toàn bộ trách nhiệm về mình, không muốn sống nhờ, không muốn sống cuộc sống trên thân thể của người khác. Những mâu thuẫn đó thể hiện sâu sắc qua từng chi tiết, hành động của nhân vật, ông không chấp nhận cuộc sống này, cuộc sống đó vốn dĩ có nhiều mâu thuẫn, nhưng sống sang thân thể người khác là điều cực kì khó hơn, ông không thể chấp nhận được. Đó là sự đấu tranh rất lớn khi ông đang dần phải đối mặt với những mâu thuẫn gây gắt của thể xác và tâm hồn xuất hiện trong tác phẩm.

Con người tồn tại gồm phần con và phần người. Phần con thuộc về bản năng. Phần người thuộc về nhân cách, sự cao thượng đẹp đẽ của tâm hồn. Phần con và phần người đã tạo ra con người đúng nghĩa. Ở đây hai hình tượng hồn và xác cũng là ẩn dụ cho phần con và phần người. Một bên đại diện cho những gì đẹp đẽ, thanh cao; một bên đại diện cho sự thô tục, thô phàm. Tác giả Lưu Quang Vũ nhấn mạnh không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục. Con người chỉ thực sự hạnh phúc khi được sống là chính mình, được hoà hợp xác và hồn, trong và ngoài, nội dung và hình thức trong một thể thống nhất toàn vẹn chứ không phải là cuộc sống chắp vá, bất nhất: “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.

Muốn sống đúng là chính mình thì mỗi chúng ta cần phải biết hài hòa giữa việc chăm lo cho linh hồn cũng như biết quý trọng và chăm sóc cho những nhu cầu thiết yếu của thể xác. Thông qua đó Lưu Quang Vũ cũng góp phần phê phán hai hạng người: một loại chỉ biết trau chuốt vẻ ngoài và chạy theo những ham muốn vật chất mà không chăm lo cho đời sống tâm hồn. Loại khác thì luôn coi thường những giá trị vật chất, bỏ bê sự chăm sóc bản thân chỉ khư khư giữ cho linh hồn được cao đẹp. Thông qua xác và hồn Lưu Quang Vũ nêu cao tư tưởng phải sống là chính mình đó mới chính là hạnh phúc thật sự của con người. Bởi vậy trong cuộc sống chúng ta phải biết đấu tranh với sự dung tục tầm thường và chiến thắng nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách của bản thân. Có như vậy chúng ta mới được là mình – được là chính mình toàn vẹn.

à Ý nghĩa cuộc đối thoại giữa hồn và xác: đoạn đối thoại khẳng định ý nghĩa của sự thống nhất giữa linh hồn và thể xác, giữa tính cách và ngoại hình. Đây là một vấn đề có tính khái quát cao, bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội. Trương Ba rơi vào bi kịch tha hóa. Qua tình cảnh của Trương Ba tác giả cảnh báo: Khi con người sống chung với dung tục sẽ bị dung tục lấn át, ngự trị và tàn phá những gì tốt đẹp, cao quý nhất của con người.

* Tất cả mọi người trong gia đình dù đã cố gắng chịu đựng để thích nghi với hoàn cảnh mới nhưng ngày càng không thể chấp nhận sự thật quái gở trong nhà mình.

- Bà vợ dù rất thương chồng, dù biết trong thân xác nặng nề thô thiển kiên là linh hồn người chồng làm vườn của mình nhưng bà đành cay đắng thừa nhận: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa…”. Và bà đành bỏ đi trong xót xa, đau đớn.

- Đứa cháu gái ngây thơ, trong sáng dứt khoát không chấp nhận ông mình trong xác lão hàng thịt vụng về, thô lỗ, làm hỏng cả cây, hoa, cả nan diều giấy của cu Tị. Nó căm ghét ông, nó mắng ông, đuổi ông vì ông ác, ông xấu lắm, ông là lão đồ tể. Nó dồn hồn Trương Ba đến chân tường của sự ân hận.

- Chị con dâu – người hiểu và thương bố chồng nhất cũng thấy sợ vì sự thay đổi ngày càng nhiều, khiến chị không nhận ra hình ảnh ông bố chồng hiền hậu, nhẹ nhàng, khéo léo trước đây. Bây giờ, trong thân xác lão hàng thịt, ông bố chồng chị lộ rõ sự vụng về, thô lỗ, tàn nhẫn. Chị đau đớn mà không biết phải làm sao.

- Đối thoại với ba người thân yêu nhất của mình, hồn Trương Ba càng thêm đau khổ, tuyệt vọng trong bi kịch bị người thân xa lánh.

- Đến đây xung đột đã lên tới đỉnh điểm cần giải quyết. Hồn Trương Ba đã tự nhủ rồi tự quyết định một hướng giải thoát: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?”, “Chẳng còn cách nào khác?”, “Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”.

à Ý nghĩa của màn thoại: cái quý nhất của con người là cuộc sống nhưng không phải bất cứ cách sống, kiểu sống nào. Sống mà đánh mất bản thân, sống giả dối với mọi người, với chính mình, sống như hồn Trương Ba đang sống thì thà chết còn hơn. Và hồn Trương Ba quyết định gọi mời Đế Thích xuống trần để thực hiện mong muốn của mình.

- Gặp lại Đế Thích, hồn Trương Ba kiên quyết chối từ cảnh sống “bên trong một đằng bên ngoài một nẻo”, nêu rõ khát vọng “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” khiến Đế Thích ngạc nhiên.

- Nhưng khi hiểu ra, ông ta lại khuyên Trương Ba nên chấp nhận vì thế giới vốn không toàn vẹn “dưới đất trên trời đều thế cả” à hàm ý phê phán xã hội tồn tại những nghịch lý.

- Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”

à Lòng tốt hời hợt, nửa vời chẳng đem lại điều gì tốt đẹp, mà sự vô tâm còn tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch.

- Đế Thích định tiếp tục “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba kiên quyết từ chối, không chấp nhận cảnh sống giả tạo, theo ông chỉ có lợi cho đám chức sắc (lí trưởng, trương tuần).

- Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy “sửa sai” bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho cu Tị. Đế Thích cuối cùng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con người hạ giới các ông thật kì lạ”.

Khi gặp được Đế Thích, Trương Ba đã bày tỏ nguyện vọng: “Tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!”. Chữ “không thể” được lặp lại hai lần thể hiện quyết tâm, ý chí sắt đá của Trương ba khi quyết định rời khỏi thân xác của anh hàng thịt. Trước thái độ ngạc nhiên, bất ngờ của Đế Thích, Trương Ba tiếp tục nói lên quan điểm sống cao đẹp: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”. Câu giải thích là sự thú nhận nghịch cảnh mà Trương Ba đã phải chịu đựng: trong ngoài bất nhất. Bên trong là tâm hồn cao khiết, nhân cách cao đẹp; bên ngoài lại là xác thịt thô tục, là những dục vọng, bản năng. Sự bất nhất là do linh hồn của Trương Ba đã nhiều lần thỏa hiệp với bản năng. Đây chính là điều đã đè nặng lên tâm hồn Trương Ba, khiến ông trăn trở, đau khổ và dằn vặt. Từ đó, Trương Ba đã nêu lên khát vọng chính đáng của mình: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. “Toàn vẹn” là sự hài hòa của bên trong và bên ngoài, giữa tâm hồn và thể xác. Trương Ba muốn hồn mình phải được hợp nhất với xác của mình để được sống cho đúng nghĩa. Đối với Trương Ba, sống không chỉ là tồn tại, mà sống phải là chính mình, làm những điều mình mong muốn, trở lại là mình toàn vẹn khi xưa.

Trước những yêu cầu, lập luận của Trương Ba, Đế Thích vẫn tỏ thái độ ngạc nhiên, cảm thấy khó hiểu trước suy nghĩ kì lạ ấy: “Có gì không ổn đâu !”, “Nhưng mà ông muốn gì ?”. Đế Thích còn khuyên Trương Ba nên chấp nhận cuộc sống hiện tại bởi: “Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư ? [...] Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông.” Đế Thích cho rằng tất cả mọi người đều đang sống trong hoàn cảnh trong ngoài bất nhất, nên hãy chấp nhận, học cách thỏa hiệp với hiện tại. Những dẫn chứng mà Đế Thích đưa ra thể hiện một quan điểm: sống là tồn tại, còn tồn tại như thế nào thì là do hoàn cảnh, điều kiện xung quanh; con người không thể thay đổi hoàn cảnh mà chỉ có thể quy thuận dù là điều mình không mong muốn. Xét vào thực tại cuộc sống, đây là quan điểm được nhiều người chia sẻ dù nó mang hơi hướng tiêu cực.

Không chấp nhận lời giải thích, lập luận của Đế Thích, Trương Ba đã thẳng thừng lên án thái độ sống ấy: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời thoại đã thẳng thừng lên án hành động và suy nghĩ sai trái của Đế Thích. Sống không chỉ là tồn tại đơn thuần, là thuận theo bản năng và hoàn cảnh mà đó phải là cuộc sống có nghĩa, sống là mình, là sự vượt lên những vui thích tầm thường để bảo vệ những giá trị cốt lõi của linh hồn cao đẹp.

Đoạn đối thoại phía sau là sự đấu tranh giữa “tồn tại hay không tồn tại”. Đáp trả lại câu hỏi của Đế Thích, Trương Ba bày tỏ nguyện vọng: “Thân thể anh hàng thịt còn lành lặn nguyên xi đây, tôi trả lại cho anh ta. Ông hãy làm cho hồn anh ta được sống lại với thân xác này”. Đế Thích lại cho rằng như thế là không thích hợp: “Sao có thể đổi tâm hồn đáng quý của bác lấy chỗ cho cái phần hồn tầm thường của anh hàng thịt ?”. Trương Ba lại bác bỏ: “Tầm thường, nhưng đúng là của anh ta… chúng sinh ra là để sống với nhau”. Quyết tâm lên cao có thể đẩy lời nói thành những hành động quyết liệt hơn: “Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất”. Sự mạnh mẽ, lời nói đầy táo bạo ấy không ai dễ gì mà nói ra được, nhưng với Trương Ba, khát vọng “được sống là chính mình” đã thôi thúc tâm hồn cần một sự thay đổi để xóa bỏ nghịch cảnh một cách triệt để: cái chết. Chỉ khi chết đi, Trương Ba mới có thể là Trương Ba, tâm hồn cao khiết được bảo toàn trọn vẹn, chính mình được thanh thản và để đổi lấy sự hồi sinh của một người chồng, một người cha, một người ông trong trái tim những người ông yêu quý.

Xen vào giữa cuộc đối thoại là tiếng khóc của cái Gái và sự ra đi của thằng cu Tị. Đế Thích muốn Trương Ba nhập hồn vào xác cu Tị: “Ông sống trong thân xác thằng bé chắc sẽ ổn”. Câu nói này lại một lần nữa thể hiện lối suy nghĩ hời hợt, thiếu chín chắn của Đế Thích. Thực chất, Đế Thích lại một lần nữa đồng hóa định nghĩa của “sống” và “tồn tại”. Trước đề nghị ấy, Trương Ba đã có một hồi phân vân. Với Trương Ba, sống vẫn đáng quý, Trương Ba vẫn muốn được tiếp tục sống. Nhưng những suy nghĩ quẩn quanh về những ngày sống dưới xác hàng thịt, những mường tượng tương lai khi trú ngụ trong xác cu Tị, Trương Ba đã đi đến quyết định: “Tôi không thể cướp cái thân thể non nớt của cu Tị”, “Ông hãy cứu nó! Ông phải cứu nó!… vì con trẻ… Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng”. Quan niệm sống cao đẹp càng sáng ngời thông qua lời đối thoại: “Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá gượng ép chỉ càng làm sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù bằng một việc đúng khác”. Đoạn đối thoại không chỉ làm sáng lên một tư tưởng sống mang tính vĩnh hằng: “sống là chính mình” mà còn phê phán lối sống: “sống là tồn tại” và lên án sự làm việc tắc trách của những bậc làm quan.

Đoạn đối thoại chính là phân đoạn phát triển thêm so với cốt truyện gốc. Bằng tài năng dựng cảnh, dựng đối thoại, độc thoại nội tâm, Lưu Quang Vũ đã cho người đọc những chân lý sống vô cùng quý giá. Chân lý sống ấy không chỉ đúng với thời đại đó, với những con người trong hoàn cảnh đó mà nó có ý nghĩa với tất cả mọi người, ở mọi thời đại, trên khắp nẻo đường ngõ xóm. Chính điều này đã nâng tầm giá trị cho tác phẩm của Lưu Quang Vũ, để đến sau này, vở kịch vẫn sẽ được dựng lại như sự lưu danh một nhà soạn kịch tài năng và là lời nhắn nhủ đến những thế hệ sau về một quan niệm sống tốt đẹp.

à Ý nghĩa của màn thoại: Qua màn đối thoại, ta thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp, vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa mạnh mẽ quyết liệt vừa kín đáo sâu sắc. Nhưng nổi bật hơn cả là ý nghĩa về lẽ sống của con người, vẻ đẹp tâm hồn con người trong cuộc đấu tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp lẽ tự nhiên cùng sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng bộc lộ ở đây.

Con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị dục vọng bản năng chi phối làm cho tha hóa không thể chỉ đổ tội cho thân xác, cũng không thể tự an ủi bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn thanh cao. Sống thực là mình, sống trung thực không phải dễ. Sống nhờ, sống gửi, sống giả dối dù có sung sướng về vật chất đến đâu cuộc sống vẫn đầy day dứt, đau khổ và vô nghĩa.

- Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật muôn đời.

- Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho vở bi kịch đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp và của sự sống đích thực.

- Phê phán thói chạy theo những ham muốn của vật chất tầm thường, chỉ muốn hưởng thụ đến mức thô thiển.

- Phê phán những kẻ lấy cớ tâm hồn là đáng quý, là thanh cao để lơ là đời sống sinh hoạt vật chất dẫn đến biếng lười, không tưởng và duy tâm…

- Phê phán những kẻ sống giả dối, không dám sống thật với bản thân mình. Tình trạng con người bị đẩy đến chỗ tha hóa vì danh lợi.

- Đề nghị một lối sống: hài hòa tinh thần và vật chất, sống thật, sống trung thực với mọi người và với chính mình.

PHẦN III. HƯỚNG DẪN VIẾT KẾT BÀI HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT

III. Tổng kết

- Được sống làm người quí giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sông trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quí giá hơn

- Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. 

- Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, chạy theo bản năng, lối sống hưởng thụ, phàm phu thô thiển.

- Sáng tạo lại cốt truyện dân gian.

- Xây dựng đối thoại giàu kịch tính, đậm chất triết lý, tạo nên chiều sâu cho vở kịch.

- Hành động và ngôn ngữ nhân vật phù hợp với tính cách, tình huống kịch.

- Tình huống, mâu thuẫn xung đợt kịch căng thẳng, hợp lí, kết thúc bất ngờ, tự nhiên, ấm áp tình người.

MỞ RỘNG: CÁC NỘI DUNG CÓ THỂ XEM THÊM

1. Hướng dẫn phân tích các bài Văn và Thơ cho kỳ thi THPT

1. 1 Các bài phân tích Văn

+ Hạnh phúc của một tang gia - Vũ Trọng Phụng

Chí Phèo của Nam Cao

Hai đứa trẻ của Thạch Lam

Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân)

Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Ông già và biển cả của HÊ-MINH-UÊ

Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

+ Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thị - Lưu Quang Vũ

Vợ Nhặt của Kim Lân

1. 2 Các bài phân tích Thơ

+ Phân tích bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng

+ Phân tích bài thơ Việt Bắc - Tố Hữu

+ Phân tích bài thơ Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

+ Phân tích bài thơ Sóng - Xuân Quỳnh

2. Kênh tuyển sinh THPT Quốc Gia 

Lịch thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia năm 2022

Cách tính điểm thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia

Khối C, tổ hợp của khối C, các ngành khối C, các trường ĐH có khối C

Khối D, tổ hợp của khối D, các ngành khối D, các trường ĐH có khối D

- Đề thi minh họa môn Văn năm 2022 

Gia Sư Thành Tài - đơn vị chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội dung.