Hà Nội thời Lê sở có tên gọi là gì

1. A.Thăng Long

2. C.10/12/1427

3. C.Yên Thái

4. A.Khủng hoảng suy vong

5. D.Mâu thuẩn giữa nhân dân với nhà nước phong kiến

6. B.Khởi nghĩa Trần Cảo

7. A.Góp phần làm nhà Lê nhanh chóng sụp đổ

Tự luận:

1. 

Nguyễn Trãi [1380 - 1442]

Lê Thánh Tông [1442 - 1497]

Ngô Sĩ Liên [thế kỉ XV]

2. Hà Nội là một thành phố có vẻ đẹp chưa từng thấy, một vẻ đẹp huyền bí lung linh bởi nước Hồ Tây, Hồ gươm, Hồ Bảy Mẫu, Hà Nội 36 phố phường những căn biệt thự nguy nga vào thời Pháp còn lại Hà Nội có nét rất Tây nhưng cũng rất Á Đông như một bức tranh với nhiều đường nét sắc sảo pha trộn muôn màu muôn sắc, hấp dẫn người dân từ mọi chân trời góc biển. Một vẻ đẹp mà chỉ có thể diễn tả và hiểu được bằng ngôn ngữ thầm kín của trái tim. Một thành phố chứa đựng cả kho tàng văn hóa Việt truyền thống mà rất hiện đại Hà Nội với những truyền thuyết Rồng bay lên, Hồ Hoàn Kiếm, những giai thoại đã ăn sâu vào tiềm thức biết bao thế hệ.

3. 

- Quyết tâm cũng cố quân đội, kiên quyết bảo vệ chủ quyền biên giới, lãnh thổ

- Đề cao trách nhiệm bảo vệ đất nước đối với người dân, trừng trị thích đáng kẻ bán nước

Chủ trương đó có giá trị đến ngày nay vì: Đề cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia dân tộc của mỗi người dân

4.

Để làm cơ sở cho việc khẳng định nền độc lập, Lê Thánh Tông rất quan tâm đến việc xác định rõ ràng cương vực của đất nước. Năm Đinh Hợi [1467], niên hiệu Quang Thuận thứ 8, vua sai quan ở các đạo điều tra địa hình giới hạn, ghi rõ trong hạt có những sản phẩm gì, đường giao thông thủy, bộ thế nào, sông núi hiểm trở ra sao hay chỗ nào có sự tích gì, tất cả đều phải ghi chép đầy đủ, rõ ràng, vẽ thành bản đồ gửi về bộ Hộ để tập hợp làm thành bản đồ cả nước. 

Tới năm Kỷ Sửu [1469], niên hiệu Quang Thuận thứ 10 thì bản đồ cả nước hoàn thành, lần đầu tiên xác định rõ lãnh thổ và cương giới đất nước. Bản đồ này làm xong vào cuối năm Quang Thuận nhưng vẫn được gọi là bản đồ Hồng Đức.

Đó là một bước tiến triển rất cao về sự thống nhất đất nước, đầy đủ chủ quyền của nước Đại Việt ta lúc bấy giờ.

Vua Lê Thánh Tông còn sai Ngô Sĩ Liên hoàn thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Đây là một công trình biên soạn lịch sử rất có giá trị. 

Về quân sự, vua Lê Thánh Tông là người tổ chức quân đội rất có kỷ cương và nghiêm chỉnh. Hơn nữa, vua còn đích thân đề ra các trận pháp.

Vua ra lệnh cho các quan Tổng binh phải luôn luôn giảng dạy, tập luyện trận đồ cho tướng sĩ. 

Do vậy, quân đội thời Hồng Đức lập được nhiều chiến công oai hùng, mở rộng cương vực, rất được các nước láng giềng kính phục.

Để quản lý quân đội một cách thuận tiện, dễ dàng, vua quyết định đổi 5 vệ quân ra 6 phủ là: Trung quân phủ, Nam quân phủ, Đông quân phủ, Bắc quân phủ và Tây quân phủ. 

........

I/.Trắc Nghiệm

1.Năm 1400 Hà Nội có tên gọi là gì?

A.Thăng Long      B.Đông Đô      C.Đông Kinh          D.Đông Quan

2.Hội thề Đông Quan diễn ra vào này tháng năm nào?

A.22/11/1426       B.29/12/1427   C.10/12/1427         D.03/11/1427

3.Đâu không phải là tên gọi của những phường thủ công nổi tiếng thời Đông Kinh

A.Nghi Tàm         B.Đồng Xuân       C.Yên Thái          D.Hàng Đào

4.Tình hình nhà Lê sở đầu TK XVI có điểm gì nổi bật?

A.Khủng hoảng suy vong                  B.Phát triển ổn định

C.Phát triển đỉnh cao                         D.Phát  triển không ổn định

5.Thời Lê sơ đầu TK XVI mâu thuẩn nào diễn ra gay gắt nhất?

A.Mâu thuẩn giữa nông dân với địa chủ

B.Mâu thuẩn giữa các phe phái phong kiến

C.Mâu thuẩn giữa bọn quan lại với nhân dân địa phương

D.Mâu thuẩn giữa nhân dân với nhà nước phong kiến

6.Nghĩa quân của cuộc khởi nghĩa nào được mệnh danh là "quân ba chỏm"

A.Khởi nghĩa Trần Tuân                  B.Khởi nghĩa Trần Cảo

C,Khởi nghĩa Phùng Chương          D.Khởi nghĩa Trịnh Hưng

7.Kết quả của các cuộc khởi nghĩa đầu TK XVI

A.Góp phần làm nhà Lê nhanh chóng sụp đổ

B.Nhiều lần uy hiếp chiếm kinh thành

C.Có lần khiến vua Lê hoảng sợ chạy khỏi kinh thành

D.Trước sau đều bị dập tắt

II/.Tự luận

1.Kể về 1 vài danh nhân thời Lê mà em biết?

2.Cảm nhận của em về Hà Nội thời kì 1400-1527?

3.Dựa vào đoạn thông tin: Vua lê Thánh Tông căn dân các quan trong triều: Một thước núi một tấc song của ta lẽ nào lại vứt bỏ? không cho họ lấn dần,nếu học không nghe còn có thể sai sứ sang tận triều đình của họ,trình bãy lẽ ngay điều gian.Nếu người nào muốn đem 1 thước một tấc đất của thái tổ làm mồi cho giặc thì bị chu di của tộc,kết hợp hiểu biết của em,nêu chủ trương của các vua thời Lê sơ đối với lãnh thổ của đất nước.Chủ trương đó có giá trị đến ngày nay không? Vì sao?

4.Nêu những việc làm và đánh giá vai trò của vua Lê Thánh Tông trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước

Rồng đá trên thềm điện Kính Thiên trong Thành cổ Hà Nội.

Thăng Long - Hà Nội là Kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Mảnh đất địa linh nhân kiệt này từ trước khi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý [1010] đã là đất đặt cơ sở trấn trị của quan lại thời kỳ nhà Tùy [581-618], Đường [618-907] của phong kiến phương Bắc. Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long - Hà Nội có nhiều tên gọi. Chúng tôi xin chia các tên gọi ấy thành hai loại: Chính quy và không chính quy, theo thứ tự thời gian như sau: 

* Tên chính quy

Là những tên được chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt ra:

1. Long Đỗ.

Truyền thuyết kể rằng lúc Cao Biền nhà Đường, vào năm 866 đắp Thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là Thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.

Năm Quang Thái thứ 10 [1397] đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý định cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời Kinh đô về đất An Tôn, Phủ Thanh Hóa. Khu mật chủ sự Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can, đại ý nói: “Ngày xưa, nhà Chu, nhà Ngụy dời Kinh đô đều gặp điều chẳng lành. Nay đất Long Đỗ có Núi Tản Viên, có Sông Lô Nhị [tức Sông Hồng ngày nay], núi cao sông sâu, đất bằng phẳng rộng rãi”. Điều đó cho thấy Long Đỗ đã từng là tên gọi đất Hà Nội thời cổ.

2. Tống Bình.

Tống Bình là tên trị sở của bọn đô hộ phương Bắc thời Tùy [581 - 618], Đường [618 - 907]. Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên [Bắc Ninh ngày nay]. Tới đời Tùy chúng mới chuyển đến Tống Bình.

3. Đại La.

Đại La hay Đại La Thành, nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy Kinh đô.

Theo kiến trúc xưa, Kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong cùng là Tử Cấm Thành [tức bức thành màu đỏ tía] nơi Vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La Thành.

Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La Thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là Thành Đại La.

Trong Chiếu dời đô của Vua Lý Thái Tổ viết năm 1010 có viết: “... Huống chi Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương [tức Cao Biền] ở giữa khu vực trời đất...” [Toàn thư, Tập I, H, 1993, tr. 241].

4. Thăng Long.

Về ý nghĩa tên gọi Thăng Long, chúng ta vẫn thường giải thích rằng: Thăng là bay lên, Thăng Long tức là rồng bay. Thực ra, ở trong Hán tự có nhiều cách viết và giải thích chữ “thăng”.

Với cách viết thứ nhất, chữ “thăng” có nghĩa là “đi lên cao, tiến lên”, bên cạnh nghĩa đầu tiên của nó là cái thưng, một dụng cụ đo lường dung tích [từ văn học: “đẩu thăng: đấu thưng”].

Cách viết thứ hai: có chữ Nhật đặt lên trên chữ Thăng mang ý nghĩa là Mặt trời lên cao và cũng có nghĩa là “đi lên cao”, như chữ “Thăng” ở cách viết thứ nhất.

Thăng Long, Kinh đô mới của Lý Công Uẩn được ghi trong Đại Việt sử ký, với chữ “Thăng” ở bộ Nhật, và do đó bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và “Rồng [bay] trong ánh Mặt trời lên cao”.

Đặt tên Thăng Long với cách viết như trên, vừa ghi lại sự kiện Vua Lý Thái Tổ thấy rồng xuất hiện trên đất được chọn làm Kinh đô mới, đồng thời có sức mạnh kỳ diệu và tốt lành của giống Rồng, rất gần gũi với dân Việt, vẫn tự cho mình là “con Rồng cháu Tiên”.Có điều đáng chú ý là các từ điển thông dụng Trung Quốc như Từ nguyên, Từ hải [Từ nguyên xuất bản 1947, Từ hải xuất bản 1967, chưa rõ những kỳ xuất bản sau có khác không], không thấy ghi từ Thăng Long ở cả 2 dạng viết chữ Thăng. Riêng Trung văn đại từ điển [tập 5, Đài Bắc 1967, trang 208], ở chữ “Thăng” là “Thưng” dạng viết thứ nhất nói trên, có từ kép “Thăng Long” nhưng là danh từ chung và được giảng là “rồng bay lên”. Như vậy, có thể thấy tên gọi Thăng Long với cách viết ghi trên sử cũ là một địa danh hoàn toàn do người Việt sáng tạo.

5. Đông Đô.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa Hạ tháng 4 năm Đinh Sửu [1397] lấy Phó tướng Lê Hán Thương [tức Hồ Hán Thương] coi phủ đô hộ là Đông Đô” [Toàn thư Sđd - tr.192]. Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô” [Cương mục - Tập 2, H. 1998, tr.700].

6. Đông Quan.

Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị Kinh đô của nước ta, chỉ được ví là “cửa quan phía Đông” của Nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở Thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 12 năm Mậu Tý [1408] Giản Định Đế bảo các quân “Hãy thừa thế chẻ tre, đánh cuốn chiếu thẳng một mạch như sét đánh không kịp bưng tai, tiến đánh Thành Đông Quan thì chắc phá được chúng” [Toàn thư , Sđd - Tập 2, tr. 244].

7. Đông Kinh.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: “Mùa Hạ, tháng 4 năm Đinh Mùi [1427] Vua [tức Lê Lợi] từ điện tranh ở Bồ Đề, vào đóng ở Thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15 Vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là Thành Thăng Long. Vì Thanh Hóa có Tây Đô, cho nên gọi Thành Thăng Long là Đông Kinh” [Toàn thư , Sđd. Tập 2, tr. 293].

8. Bắc Thành.

Đời Tây Sơn [Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802], vì Kinh đô đóng ở Phú Xuân [tức Huế] nên gọi Thăng Long là Bắc Thành [Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - 11.1979, tr.12].

9. Thăng Long.

[Thịnh vượng lên]. Sách Lịch sử Thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân [tức Huế], không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi Kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi. Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong dân gian cả nước, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “Long” là Rồng thành chữ “Long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà Vua, nay Vua không ở đây thì không được dùng chữ “Long” là “rồng” [Trần Huy Liệu - Chủ biên. Lịch sử Thủ đô Hà Nội, H. 1960, tr 81].Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó Vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ Hoàng thành cũ, vì Vua không đóng đô ở Thăng Long, mà Hoàng thành Thăng Long lại rộng lớn quá.


10. Hà Nội
.

So với tên gọi Thăng Long với ý nghĩa chủ yếu có tính cách lịch sử [dù chỉ đưới dạng truyền thuyết: ghi lại sự kiện có rồng hiện lên khi Vua tới đất Kinh đô mới], thì tên gọi Hà Nội có tính cách địa lý, với nghĩa “bên trong sông”. Nhưng nếu xét kỹ trên bản đồ thì chỉ có Sông Nhị là địa giới Tỉnh Hà Nội cũ về phía Đông, còn Sông Hát và Sông Thanh Quyết không là địa giới, như vậy có bộ phận Tỉnh Hà Nội không nằm bên trong những con sông này. Và khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp, tên gọi lại càng không tương xứng với thực địa...

Trung văn đại từ điển, tập 19 [Đài Bắc 1967, tr.103] cho biết Hà Nội là tên một quận được đặt từ đời Hán [202 Tr.CN - 220 S.CN] nằm phía Bắc Sông Hoàng Hà. Tên Hà Nội từng được ghi trong Sử ký của Tư Mã Thiên [hạng Vũ Kỷ], kèm lời chú giải: “Kinh đô đế vương thời xưa phần lớn ở phía Đông Sông Hoàng Hà, cho nên gọi phía Bắc Sông Hoàng Hà là Hà Ngoại”.

Rất có thể Minh Mạng đã chọn tên gọi Hà Nội, một tên hết sức bình thường để thay tên gọi Thăng Long đầy gợi cảm, nhưng tên gọi mới Hà Nội này lại có thể được giải thích là “đất Kinh đô các đế vương thời xưa”, để đối phó với những điều dị nghị.

Chính cách đặt tên đất “dựa theo sách cũ” đã lại được thực thi, sau này, năm 1888 Thành Hà Nội và phụ cận trở thành nhượng địa của thực dân Pháp, tỉnh lỵ Hà Nội phải chuyển tới Làng Cầu Đơ [thuộc Huyện Thanh Oai, Phủ Hoài Đức], cần có một tên tỉnh mới. Người ta đã dựa vào một câu trong sách Mạnh Tử [Lương Huệ Vương, thượng, 3] “Hà Nội mất mùa, thì đưa dân đó về Hà Đông, đưa thóc đất này về Hà Nội, Hà Đông mất mùa cũng theo phép đó”.

Dựa theo câu trên, người ta đặt tên tỉnh mới là Hà Đông, tuy rằng tỉnh này nằm ở phía Tây Sông Nhị, theo thực địa phải đặt tên là Hà Tây mới đúng.

Phố Cửa Bắc

 
* Tên không chính quyLà những tên trong văn thơ, ca dao, khẩu ngữ... dùng để chỉ Thành Thăng Long - Hà Nội.

1. Trường An - [Tràng An]: Vốn là tên Kinh đô của hai triều đại phong kiến thịnh trị vào bậc nhất của nước Trung Quốc: Tiền Hán [206 Tr. CN - 8 S.CN] và Đường [618 - 907]. Do đó, được các nhà Nho Việt Nam xưa sử dụng như một danh từ chung chỉ Kinh đô. Từ đó, cũng được người bình dân sử dụng nhiều trong ca dao, tục ngữ chỉ Kinh đô Thăng Long.

Thí dụ: Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.Rõ ràng chữ Trường An ở đây là để chỉ Kinh đô Thăng Long.

2. Phượng Thành [Phụng Thành]

Vào đầu Thế kỷ XVI, ông Trạng Nguyễn Giản Thanh người Bắc Ninh có bài phú Nôm rất nổi tiếng: Phượng Thành xuân sắc phú [Tả cảnh sắc mùa Xuân ở Thành Phượng].Nội dung của bài phú trên là tả cảnh mùa Xuân của Thăng Long đời Lê. Phụng Thành hay Phượng Thành được dùng trong văn học Việt Nam để chỉ Thành Thăng Long.

3. Long Biên. - Là nơi quan lại nhà Hán, Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều [Thế kỷ III, IV, V, và VI] đóng trụ sở ở Giao Châu [tên nước ta thời ấy]. Sau đó, đôi khi cũng được dùng trong thơ văn để chỉ Thăng Long - Hà Nội. Sách Quốc triều đăng khoa lục có đoạn chép về tiểu sử Tam nguyên Trần Bích San [1838 - 1877], ghi lại bài thơ của Vua Tự Đức viếng ông, có hai câu đầu như sau:

Long Biên tài hướng Phượng Thành hồiTriệu đối do hy vĩnh biệt thôi!Dịch nghĩa:Nhớ người vừa tự Thành Long Biên về tới Phượng ThànhTrẫm còn đang hy vọng triệu ngươi vào triều bàn đối, bỗng vĩnh biệt ngay.Thành Long Biên ở đây, Vua Tự Đức dùng để chỉ Hà Nội, bởi vì bấy giờ Trần Bích San đang lĩnh chức Tuần phủ Hà Nội. Năm 1877, Vua Tự Đức triệu ông về Kinh đô Huế để sung chức sứ thần qua nước Pháp, chưa kịp đi thì mất.

4. Long thành. - Là tên gọi tắt của Kinh thành Thăng Long. Nhà thơ thời Tây Sơn Ngô Ngọc Du, quê ở Hải Dương, từ nhỏ theo ông nội lên Thăng Long mở trường dạy học và làm thuốc. Ngô Ngọc Du là người được chứng kiến trận đại thắng quân Thanh ở Đống Đa - Ngọc Hồi của Vua Quang Trung. Sau chiến thắng Xuân Kỷ Dậu [1789], Ngô Ngọc Du có viết bài Long Thành quang phục kỷ thực [Ghi chép việc khôi phục Long Thành].

5. Hà Thành. - Là tên gọi tắt của Thành phố Hà Nội được dùng nhiều trong thơ ca để chỉ Hà Nội. Thí dụ như bài Hà Thành chính khí ca của Nguyễn Văn Giai, bài Hà Thành thất thủ, tổng vịnh [khuyết danh], Hà Thành hiểu vọng của Ba Giai[?]...

6. Hoàng Diệu. - Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đôi khi trong các báo chí của ta, chúng ta sử dụng tên này để chỉ Hà Nội. [Thành Hoàng Diệu].

Ngoài ra, trong cách nói dân gian còn nhiều từ được dùng để chỉ Thăng Long - Hà Nội như: Kẻ Chợ [Khéo tay hay nghề đất lề Kẻ Chợ - Khôn khéo thợ thầy Kẻ Chợ]; Thượng Kinh, tên này để nói đất Kinh Đô ở trên mọi nơi khác trong nước, dùng để chỉ Kinh đô Thăng Long [Chẳng thơm cũng thể hoa nhài, Chẳng lịch cũng thể con người Thượng Kinh]. hoặc trong tác phẩm: Thượng Kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác; Kinh Kỳ, tên này nói đất có Kinh đô đóng [Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến]; Và đôi khi chỉ dùng một từ như “Ăn Bắc, mặc Kinh”. Bắc đây chỉ vùng Kinh Bắc [Bắc Ninh], Kinh chỉ Kinh đô Thăng Long.Loại tên không chính quy của Thăng Long - Hà Nội còn nhiều, được người đời sử dụng khá linh hoạt trong văn học, ca dao... kể ra đây chưa hết...

Trích Tổng tập Nghìn năm văn hiến Thăng Long


 [Theo Hà Nội mới, VGPNEWS]

Video liên quan

Chủ Đề