Cổ phiếu pha loãng là gì năm 2024

Trong bài viết cách đây 2 ngày, tôi có đề cập đến trường hợp của một doanh nghiệp hàng đầu trên TTCK VN. Bài viết nhận được rất nhiều ý kiến đa chiều, và tôi cũng đã phản hồi hầu hết các ý kiến đó. Hôm nay tôi không nhắc đến chủ đề trên nữa, mà chỉ xin chia sẻ một vài kiến thức để NĐT cùng hiểu rõ hơn.

Đầu tiên, nếu nói cứng nhắc sách vở kiểu "Gà học bài" thì khái niệm "Pha loãng cổ phiếu" - dilution - chỉ xảy ra khi việc phát hành thêm (PHT) cổ phiếu làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sở hữu của cổ đông. Các trường hợp này bao gồm như PHT (bán) ra Công chúng, PHT (bán) cho Cổ đông hiện hữu, Phát hành riêng lẻ, ESOP, PHT cổ phiếu để chuyển đổi Trái phiếu (nợ). Hình thức dilution luôn mang lại dòng tiền cho doanh nghiệp. Bản chất của TTCK là kênh huy động vốn, cho nên đây là hình thức thực sự mang tính tốt đẹp. Nếu doanh nghiệp dùng tiền mới đó để đầu tư vào SXKD để mang lại giá trị gia tăng cho cổ đông thì đó là sự lành mạnh tuyệt vời.

Thế nhưng dilution cũng có những vấn đề. Thứ nhất: không phải DN nào có thêm vốn cũng thành công theo tỷ lệ tương xứng, đôi khi thêm vốn rồi đầu tư lung tung, hoặc bất ngờ gặp rủi ro sẽ thua lỗ lớn hơn khi vốn còn nhỏ. Thứ hai: một số ông chủ không thích tăng vốn ngoài vì sợ mất quyền kiểm soát. Mặt khác, trong những đợt tăng vốn cho cổ đông hiện hữu các ông chủ không có tiền hay không muốn bỏ tiền ra mua thêm, sẽ gây ảnh hưởng đến tỷ lệ sở hữu của họ. Thứ ba: lại có những ông tăng vốn ảo, tức bản chất dòng tiền không có thật, chỉ là in thêm giấy rồi mang lên sàn làm giá, bán giá nào cũng được, đều mang tiền tươi thóc thật về cho họ cả. ROS là một ví dụ điển hình. Thứ tư: việc tăng vốn cũng sẽ làm các chỉ số cơ bản của DN như EPS, ROE, xấu đi trong ngắn hạn. Điều này chỉ có thể cân bằng khi dòng tiền mới mang lại hiệu quả tương xứng sau một khoảng thời gian nào đó. Dilution sẽ làm các ông chủ mất ăn mất ngủ vì phải tìm mọi cách nhanh chóng đạt lợi nhuận cao.

Ngoài hình thức dilution thì việc trả cổ tức bằng cổ phiếu - stock dividend hay stock split - cũng có thể coi là một sự pha loãng, hay chính xác hơn là pha loãng giá. Bản chất thực chỉ là bút toán doanh nghiệp, không làm thay đổi VCSH, túi phải qua túi trái mà thôi. Hãy hình dung là một cái bánh được cắt làm 4, mình sở hữu 1 phần, bây giờ cắt làm 8, mình sở hữu 2 phần, chả khác gì nhau cả. Hình thức pha loãng kiểu split này làm tăng quy mô DN qua VĐL lớn lên, tăng vị thế và hình ảnh của DN. Vì thế việc đi vay vốn để phát triển SXKD cũng dễ hơn. Ngoài ra, giá cổ phiếu nhỏ hơn cũng tạo ra sức hút đám đông, tăng tính thanh khoản thị trường, mục đích để sau này có thể thành công trong việc tăng vốn bằng hình thức PHT (bán thêm)/dilution.

Tuy nhiên, hình thức pha loãng kiểu trả cổ tức bằng cổ phiếu này cũng bộc lộ những nhược điểm chết người. Thứ nhất: để giữ được chỉ tiêu quan trọng P/E thì DN phải giữ được tốc độ tăng trưởng lợi nhuận. Một khi đã nhìn thấy tương lai KD u ám, dứt khoát không pha loãng, vì sẽ làm giá cổ phiếu lao dốc không phanh do cộng hưởng tính cung cầu của cổ phiếu trôi nổi. Việc giữ giá cổ phiếu cũng là trách nhiệm của DN, chứ không hẳn chỉ của thị trường hay NĐT. Thứ hai: dù đúng là việc giữ vốn lại cho DN phát triển là cần thiết, nhưng nếu quy mô vốn đã đủ lớn, các nhà bank đã định vị uy tín, giá trị DN thông qua VCSH, thì việc pha loãng quá đà đôi lúc sẽ làm mất lòng tin của giới đầu tư. Họ không còn thấy ý nghĩa thực của việc này, mà chỉ nhìn ở khía cạnh hình thức, ra vẻ trả cổ tức đều đặn cao. Thứ ba: việc luôn chỉ sử dụng chiêu tăng vốn qua trả cổ tức bằng cổ phiếu còn có ý nghĩa chỉ chăm chăm bảo vệ quyền lực cá nhân, giữ tỷ lệ sở hữu không đổi, không màng đến yếu tố cung cầu thị trường. Đây là một trong những yếu tố mà NĐT dù là tổ chức hay cá nhân sẽ quay lưng lại với DN.

Đầu tư chứng khoán có rất nhiều trường phái khác nhau, nhưng tựu chung đều có ý nghĩa là gửi một số vốn nhất định vào nơi đáng tin cậy. NĐT hy vọng rằng số vốn này được bảo toàn, có thể tăng lên theo thời gian nào đó nhờ các yếu tố có thể đến từ cốt lõi DN, có thể đến từ thị trường chung hoặc bất cứ lý do gì cũng được. Cho nên nếu việc trả cổ tức bằng tiền mặt, bản chất là rút tiền ra khỏi DN, làm giảm VCSH, chỉ là hình thức đáp ứng nhu cầu bề ngoài, thì NĐT cũng không cần điều này. Một ví dụ điển hình là cổ phiếu Berkshire Hathaway của Warren Buffett chả bao giờ trả cổ tức bằng tiền hay cổ phiếu cả, thậm chí còn mua lại cổ phiếu của chính mình (giảm vốn) nhưng giá luôn tăng trưởng vùn vụt.

NĐT chứng khoán dù là Fn hay F0 cũng đều là những nhân tài, chí ít cũng đã sự khác biệt khi dám bỏ tiền để đầu tư. Dù bạn đánh đầu cơ, đánh T+, hay đánh tích sản dài hạn, kiến thức là hành trang trên con đường chông gai này. Mà kiến thức thì không thể học và lĩnh hội qua một vài khóa học ngắn, qua MXH được. Nó cần được sự suy gẫm sâu sắc, trao đổi và học hỏi hàng ngày. Chỉ có như vậy thành công mới đến với chúng ta.

Pha loãng cổ phiếu là việc tỷ lệ sở hữu của cổ đông bị giảm xuống do doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu mới cho một đối tượng nhất định. Tuy nhiên, không phải đợt phát hành cổ phiếu mới nào cũng làm giảm tỷ lệ sở hữu của cổ đông. Chẳng hạn như khi doanh nghiệp phát hành cổ phiếu chi trả cổ tức cho cổ đông hay chia tách cổ phiếu, mỗi cổ đông sẽ được nhận lượng cổ phiếu tương ứng theo tỷ lệ sở hữu hiện tại. Khi đó, phương án phát hành này tuy làm giảm tỷ lệ lợi nhuận trên mỗi cổ phần (EPS), nhưng lại không làm thay đổi tỷ lệ sở hữu của mỗi cổ đông.

Hệ quả của việc cổ phiếu bị pha loãng không chỉ làm giảm tỷ lệ sở hữu hiện tại của cổ đông mà còn ảnh hưởng đến các lợi ích trực tiếp của cổ đông, như quyền biểu quyết, cổ tức được nhận, hay thậm chí quyền được thanh toán giá trị còn lại của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp bị giải thể, phá sản.

Các trường hợp pha loãng cổ phiếu

Chào bán cổ phiếu

Chào bán cổ phiếu - hay phát hành cổ phiếu - là việc doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu bán chúng. Có ba hình thức chào bán cổ phiếu đó là chào bán riêng lẻ, chào bán ra công chúng và chào bán cho cổ đông hiện hữu.

Chào bán riêng lẻ là việc doanh nghiệp tiến hành chào bán cổ phiếu cho một số ít nhà đầu tư (dưới 100 nhà đầu tư). Danh sách các nhà đầu tư được xác định từ trước, thông thường sẽ là các cổ đông chiến lược, cổ đông hiện hữu, hay các đối tác của công ty.

Khác với chào bán riêng lẻ, số lượng nhà đầu tư tham gia mua cổ phiếu theo phương thức chào bán ra công chúng thường nhiều và không xác định. Phương thức chào bán này có lợi thế cho doanh nghiệp có nhu cầu huy động lượng vốn lớn. Tuy nhiên, rủi ro pha loãng từ phương thức chào bán này cũng cao hơn.

Chào bán cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu là trường hợp doanh nghiệp phát hành thêm và bán toàn bộ số cổ phiếu đó cho tất cả cổ đông. Mỗi cổ đông sẽ được mua lượng cổ phiếu tương ứng với tỷ lệ sở hữu hiện tại của mình.

Ví dụ doanh nghiệp phát hành 1.000 cổ phiếu cho tất cả cổ đông hiện hữu. Cổ đông A có tỷ lệ sở hữu đối với doanh nghiệp là 15%. Do đó, A sẽ có quyền mua số lượng cổ phiếu tương ứng với 15% x 1.000 cổ phiếu = 150 cổ phiếu.

Với phương thức này, nếu tất cả cổ đông đều thực hiện quyền mua của mình, thì tỷ lệ sở hữu của mỗi cổ đông sau đợt phát hành không thay đổi, nên cũng không làm pha loãng cổ phiếu. Tuy nhiên, trong trường hợp cổ đông không muốn thực hiện quyền mua, dẫn đến tỷ lệ sở hữu giảm, như vậy đã chịu sự pha loãng cổ phiếu.

Phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn người lao động (ESOP)

ESOP là một dạng quyền mua cổ phiếu được phát hành cho nhân viên công ty, mục đích chính để khích lệ và giữ chân nhân viên giỏi. Người mua cổ phiếu ESOP là ban lãnh đạo công ty, hoặc những nhân viên ít nhiều chịu sự quản lý từ ban lãnh đạo. Do đó, hệ quả của việc phát hành ESOP sẽ làm giảm quyền sở hữu của cổ đông bên ngoài, đồng thời tăng thêm “sức mạnh” cho ban lãnh đạo công ty.

ESOP

ESOP (Employee Stock Ownership Plan) là kế hoạch phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty.

ProFinNguyễn Dương

Cổ phiếu pha loãng là gì năm 2024

Trái phiếu chuyển đổi được chuyển đổi thành cổ phiếu

Trong trường hợp này, doanh nghiệp có nghĩa vụ phát hành thêm cổ phiếu để thực hiện yêu cầu chuyển đổi của trái chủ. Sau khi chuyển đổi, doanh nghiệp sẽ giảm được khoản nợ vay từ trái phiếu, đồng thời vốn chủ sở hữu sẽ tăng lên, số lượng cổ phiếu cũng tăng theo.

Sự kiện pha loãng này ảnh hưởng chủ yếu đến tỷ lệ sở hữu và làm thay đổi cơ cấu cổ đông. Xét về lợi ích mỗi cổ đông nhận được, lợi nhuận doanh nghiệp sẽ không bị ảnh hưởng quá nhiều, vì khi đó doanh nghiệp không phải trả lãi vay cho trái phiếu nữa. Việc giảm chi phí lãi vay giúp doanh nghiệp giữ lại nhiều lợi nhuận hơn, góp phần bù đắp cho số lượng cổ phiếu tăng lên do chuyển đổi.

Phát hành cổ phiếu cho mục đích sáp nhập

Sáp nhập bằng phương pháp hoán đổi cổ phiếu là việc doanh nghiệp nhận sáp nhập phát hành thêm cổ phiếu và hoán đổi chúng với toàn bộ cổ phiếu của doanh nghiệp bị sáp nhập, tỷ lệ hoán đổi được hai bên thỏa thuận từ trước.

Giả sử công ty A có 100.000 cổ phiếu, với giá thị trường là 100.000 đồng/ cổ phiếu. Công ty B có 40.000 cổ phiếu, giá thị trường là 25.000 đồng/ cổ phiếu. Công ty A sẽ tiến hành sáp nhập công ty B với phương án hoán đổi cổ phiếu. Theo đó, công ty A tiến hành phát hành thêm 10.000 cổ phiếu và tiến hành hoán đổi toàn bộ số cổ phiếu của công ty B theo tỷ lệ 1:4 (1 cổ phiếu công ty A sẽ đổi được 4 cổ phiếu công ty B). Sau khi sáp nhập, số lượng cổ phiếu của công ty A sẽ là 110.000 cổ phiếu, và các cổ đông công ty B sẽ trở thành cổ đông của công ty A.

Trong các sự kiện sáp nhập, công ty nhận sáp nhập (công ty A) sẽ là bên chịu rủi ro pha loãng cổ phiếu. Tuy nhiên, việc pha loãng này sẽ có ảnh hưởng tích cực, vì mục tiêu của các thương vụ sáp nhập này thường nhằm phục vụ cho việc kinh doanh như: giảm chi phí sản xuất, giảm bớt đối thủ cạnh tranh và tăng thị phần.

Ảnh hưởng của việc pha loãng cổ phiếu

Như đã đề cập ở trên, ảnh hưởng chủ yếu của việc pha loãng cổ phiếu là làm giảm tỷ lệ sở hữu của các cổ đông. Dẫn đến giảm quyền biểu quyết với các hoạt động của công ty, và làm giảm lợi ích trực tiếp mà cổ phiếu đem lại như quyền được nhận cổ tức,... Pha loãng cổ phiếu cũng có những ảnh hưởng nhất định đến doanh nghiệp như:

  • Thay đổi cơ cấu cổ đông, có thể khiến các cổ đông sáng lập mất quyền kiểm soát doanh nghiệp;
  • Thay đổi cơ cấu vốn, làm tăng vốn chủ sở hữu, giảm nợ (trong trường hợp chuyển đổi trái phiếu sang cổ phiếu);
  • Thay đổi các chỉ số tài chính quan trọng của doanh nghiệp, như chỉ số EPS, ROE, Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu…;
  • Tăng áp lực cho ban lãnh đạo doanh nghiệp phải tạo ra lợi nhuận tương ứng với phần vốn tăng thêm.

Trong ngắn hạn, việc pha loãng cổ phiếu có thể gây tác động tiêu cực cho cả cổ đông và doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong dài hạn không phải sự kiện pha loãng nào cũng có tác động xấu. Chẳng hạn trong các thương vụ M&A, hay chào bán cổ phiếu huy động vốn cho dự án kinh doanh mới sẽ giúp doanh nghiệp mở rộng quy mô, tăng hiệu quả sản xuất, dẫn đến tạo ra nhiều lợi nhuận hơn trong tương lai. Thông qua phát hành ESOP cũng giúp nhân viên có thêm động lực làm việc và tạo được nhiều sản phẩm hơn.

Thế nào là pha loãng cổ phần?

Là một thuật ngữ quen thuộc trong lĩnh vực kinh doanh, môi giới, đầu tư chứng khoán, pha loãng cổ phiếu, tiếng Anh là Dilution, Stock Dilution hoặc Equity Dilution, xảy ra khi doanh nghiệp phát hành thứ cấp thêm cổ phiếu khiến cho tỷ lệ sở hữu cổ phiếu của các cổ đông hiện tại giảm xuống.

Hiệu ứng pha loãng cổ phiếu là gì?

Pha loãng cổ phiếu (tiếng Anh: Dilution) là việc một doanh nghiệp thực hiện phát hành thêm cổ phiếu mới ra thị trường khiến cho số lượng cổ đông trong công ty tăng lên nhưng làm cho tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông hiện tại bị giảm xuống.

Dilution trọng tài chính là gì?

Dilution (Pha loãng/ Suy giảm) được định nghĩa là Giảm thu nhập trên mỗi cổ phiếu hoặc gia tăng lỗ trên mỗi cổ phiếu do giả định rằng các công cụ chuyển đổi được chuyển đổi, các tùy chọn hoặc chứng quyền được thực hiện hoặc cổ phiếu phổ thông được phát hành khi đáp ứng các điều kiện cụ thể.

Diluting the capital stock là gì?

Dilution trong Đầu tư mạo hiểm (VC), tạm dịch là pha loãng, là sự giảm tỷ lệ sở hữu của các cổ đông hiện hữu trong một công ty do phát hành cổ phiếu mới. Khi một công ty khởi nghiệp huy động tiền từ các nhà đầu tư, sẽ phát hành cổ phiếu mới, làm giảm tỷ lệ sở hữu của các cổ đông hiện tại.