Cây thầu dầu tía trồng ở đâu

Cây thầu dầu hay đu đủ tía là loại cây được trồng phổ biến ở nhiều nơi tại Việt Nam. Bên cạnh là một vị thuốc chữa được nhiều bệnh, cây thầu dầu tía còn được ứng dụng trong các ngành công nghiệp kỹ nghệ, chủ yếu là ép hạt lấy dầu. Tuy nhiên, nhiều người vẫn thắc mắc cây thầu dầu có độc không và cây thầu dầu tía chữa bệnh gì?

Cây thầu dầu hay còn gọi là đu đủ tía có tên khoa học Ricinus Communis, thuộc họ thầu dầu [Euphorbiaceae]. Một số đặc điểm nhận dạng cây thầu dầu như:

  • Cây có chiều cao khoảng 3 – 4 m, đôi khi có thể cao hơn;
  • Thân và cành cây thầu dầu tía đều có dạng hình trụ, bề mặt trơn nhẵn, màu xanh lục hoặc đỏ tía. Riêng những cành non lại có màu phấn trắng;
  • Lá thầu dầu mọc so le với nhau, xẻ sâu hình chân vịt, phân chia thành 7 thùy. Phần đầu lá nhọn, mép hình răng cưa, 2 mặt lá trơn nhẵn và có cuống dài;
  • Hoa cây thầu dầu mọc thành cụm ở kẽ lá hoặc ngọn cây, đặc biệt những cụm hoa được bao bọc bởi nhiều lá bắc. Hoa cái mọc ở trên, hoa đực mọc ở dưới. Phần đài hoa đực bao gồm 3 đến 5 răng cưa, nhiều nhị và phân nhánh. Hoa cái có 5 lá đài rụng sớm, vòi nhụy màu đỏ, bầu 3 và có nhiều gai mềm. Mua ra hoa khoảng tháng 3 đến tháng 6;
  • Quả thầu dầu dạng quả nang, màu tím nhạt hoặc lục, có gai mềm xung quanh. Mùa ra quả thường là tháng 8-10;
  • Hạt thầu dầu dạng hạt 3, hình bầu dục dẹt, bề mặt nhẵn bóng và có những đốm đen hoặc xám.

Cây thầu dầu nguồn gốc từ các nước Châu Phi, bên cạnh đó còn ghi nhận xuất hiện ở một số vùng cận nhiệt đới như Himalaya, Ấn Độ. Hiện nay, cây thầu dầu đã được trồng rộng rãi ở nhiều nơi trên thế giới như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc, Hoa Kỳ, một số nước Trung Á... Riêng tại Việt Nam cây thầu dầu đã xuất hiện lâu đời, trước đây trồng phổ biến ở vùng đồng bằng sông Hồng, sông Đuống và sông Lô. Tuy nhiên, thời gian gần đây sự phân bố của cây đã bị thu hẹp dần.

Về đặc điểm sinh thái, cây thầu dầu tía ưa thích sống ở những nơi sáng sủa, rộng rãi và thoáng. Tùy đặc điểm mỗi loài mà cây thầu dầu có thể thích nghi với nhiều điều kiện khí hậu như nhiệt đới gió mùa, độ ẩm cao hoặc khí hậu hơi khô. Các giống trồng ở vùng Trung Á và Trung Quốc có khả năng chịu được nhiệt độ thấp và có thể chịu ngập úng trong thời gian lên đến 3 ngày.

Cây thầu dầu ra hoa, kết quả hằng năm. Thầu dầu có giá trị sử dụng rất cao, hạt được dùng để ép lấy dầu béo, lá là thực ăn nuôi tằm hoặc làm phân xanh, thân cây lấy làm củi đun.

Cây thầu dầu nguồn gốc từ các nước Châu Phi

Hạt cây thầu dầu có đến 40 – 50% là dầu béo, 25% albuminoid [một hợp chất chứa albumin], đường, muối, axit malic, xenluloza, ricinin, ricin và axit undecylenic.

Chất ricin trong hạt chiếm tỷ lệ khoảng 3 – 5%, đây là một protein rất độc. Còn chất ricinin ngoài có trong hạt [tỷ lệ 0.15%] còn xuất hiện trong lá non [tỷ lệ 1.3%], lá úa [2.5%]. Ngoài ra, trong lá cây thầu dầu còn chứa một số loại axit như axit tactric, axit xitric, axit corydalic và nhiều axit amin...

Dầu ép từ hạt cây thầu dầu có tác dụng nhuận tràng rất tốt khi uống lúc bụng đói với liều từ 10-30g. Sau sử dụng khoảng 3 đến 4 giờ sẽ gây đại tiện nhiều mà không gây đau bụng. Với liều khoảng 30-50g, việc đại tiện có thể kéo dài khoảng 5-6 giờ. Dầu thầu dầu có đặc điểm là không gây hiện tượng sót phân trong lòng đại tràng. Khi theo dõi bằng cách chụp phim X quang, người ta nhận thấy nhu động ruột non và ruột già tăng lên khi sử dụng dầu thầu dầu. Ngoài ra, tác dụng nhuận tràng này không ảnh hưởng co bóp tử cung nên rất phù hợp cho đối tượng phụ nữ đang mang thai bị táo bón. Tuy nhiên, việc sử dụng kéo dài có thể gây ra hiện tượng chán ăn [anorexia], lưỡi trắng và đôi khi sốt. Lý giải cho hiện tượng này có thể là do quá trình tiêu hóa không tốt chứ không ghi nhận bất kỳ tổn thương nào niêm mạc đường tiêu hóa. Theo Valette và Salvanet [1936], tác dụng nhuận tràng của dầu thầu dầu là do axit ricinoleic giải phóng trong lòng ruột.

Chất ricin trong hạt thầu dầu một chất độc. Với liều 0.002mg/1kg cân nặng có thể giết chết một con thỏ. Tác dụng độc của ricin tương tự độc tố của các loại vi khuẩn. Cần lưu ý chất ricin này có khả năng tạo miễn dịch, nếu cho súc vật ăn với liều nhỏ, nhiều lần thì sau đó chúng có thể ăn với liều cao hơn mà không gây chết.

Một tin tốt là ricin có thể bị phá hủy ở nhiệt độ cao, cho nên nhiều nơi đem hạt cây thầu dầu phơi khô hoặc hấp nóng ở 115 độ C cho lợn ăn. Và có thể nhờ vào khả năng này mà ở nước ta, người dân xào nấu hạt cây thầu dầu để ăn mà không thấy hiện tượng ngộ độc. Nếu không bị phá huỷ, độ độc của ricin rất cao:

  • 3g hạt thầu dầu khô đủ giết chết một con bò nặng 100kg;
  • Tiêm 0.03mg/1kg cân nặng có thể giết chết chó;
  • Liều độc đối với một con chuột bạch nặng 500g là 6 phần triệu gam, nghĩa là đối ricin độc gấp 7 lần chất aconitin, là một chất thuộc loại độc nhất có trong ô đầu [Aconitum];
  • Liều độc với người là 3mg tiêm dưới da hoặc 180mg theo đường uống, cụ thể hơn 1 hạt đã đủ gây nôn mửa, 3 - 4 hạt đủ làm trẻ con chết, 14 - 15 hạt làm chết người trưởng thành. Ricin trong thầu dầu sẽ là làm vón hồng cầu và bạch cầu.

Bên cạnh đó, chất ricinin trong hạt thầu dầu đến nay chưa ghi nhận tài liệu về tác dụng dược lý.

Cây thầu dầu chữa liệt thần kinh mặt

Sa tử cung và trực tràng: Dùng hạt cây thầu dầu giã ra đắp lên đầu.

Ðẻ khó, sót nhau: Dùng hạt cây thầu dầu [khoảng 14 hạt] giã nát đắp vào lòng bàn chân, khi sinh xong hay nhau đã bong ra thì bỏ thuốc ngay lập tức và rửa sạch.

Liệt thần kinh mặt: Giã hạt cây thầu dầu và đắp vào nửa mặt đối diện.

Chữa bệnh trĩ:

  • Cách 1: Dùng lá cây thầu dầu tía đem rửa sạch, rồi đun với nước đến khi đặc lại thì để nguội và sử dụng dung dịch này để rửa hậu môn. Ngoài ra, người bệnh có thể kết hợp lá cây thầu dầu tía và lá vông đem rửa sạch và đun với nước, dùng nước này để ngâm hậu môn hoặc sử dụng lá thầu dầu tía và lá vông theo tỉ lệ 1:1, giã nát, rồi lấy miếng vải sạch bọc lại và đem đắp hậu môn trong vòng 5 phút rồi dùng khăn lau sạch. Thực hiện một trong 3 cách trên 1 lần/ngày, chỉ sau 1 tuần sẽ thấy các triệu chứng bệnh trĩ thuyên giảm rõ rệt;
  • Cách 2: Lấy 9 hạt cây thầu dầu tía và 9 con học trò nước [là con vật có chân dài như nhện thường chạy trên mặt nước]. Giã nát 2 nguyên liệu với nhau, rồi đem xào với dấm thanh cho nóng, sau đó sử dụng miếng vải sạch bọc lại, vạch tóc ra và đắp vào huyệt Bách hội ở giữa đỉnh đầu. Lưu ý khi thấy búi trĩ dần rút lên thì gỡ bỏ thuốc đi vì để lâu sẽ rất nguy hiểm.

Hiện nay, ngoài tự nhiên có rất nhiều loại thầu dầu khác nhau tuy nhiên chỉ có loại cây thầu dầu lá màu tía là sử dụng để làm thuốc.

Cả lá và hạt cây thầu dầu tía đều chứa độc tố [đặc biệt là hạt], khi sử dụng trên 10 hạt có thể gây chết người. Vì lẽ đó mà các bài thuốc Đông y không sử dụng hạt thầu dầu để làm thuốc uống mà chỉ sử dụng để bào chế thuốc đắp ngoài.

Thầu dầu là vị thuốc thường dùng để lấy dầu ép từ hạt, rễ và lá để chữa phong thấp, đau xương khớp, mụn nhọt viêm mủ, tẩy xổ nhuận tràng... Tuy nhiên cây thầu dầu có chứa chất rất độc, vì vậy bệnh nhân cần được tư vấn các bác sĩ chuyên khoa để có thông tin chính xác nhất và những điều cần lưu ý khi sử dụng thuốc.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 1900 232 389 [phím 0 để gọi Vinmec] hoặc đăng ký lịch khám tại viện TẠI ĐÂY. Nếu có nhu cầu tư vấn sức khỏe từ xa cùng bác sĩ Vinmec, quý khách đặt lịch tư vấn TẠI ĐÂY. Tải ứng dụng độc quyền MyVinmec để đặt lịch nhanh hơn, theo dõi lịch tiện lợi hơn

XEM THÊM:

Thầu dầu hay tên gọi khác là đu đủ tía được trồng rất nhiều ở nước ta, là vị thuốc có rất nhiều tác dụng chữa bệnh. Ngoài ra cây còn được sử dụng nhiều trong các ngành công nghiệp kĩ nghệ, chủ yếu lấy dầu từ ép hạt của Thầu dầu. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ về đặc điểm, tác dụng và cách sử dụng của vị thuốc này

Mô tả Thầu dầu

Danh pháp

Tên gọi khác: Đu đủ tía

Tên khoa học: Ricinuscommunis L.

Họ: Thầu dầu [Euphorbiaceae]

Mô tả cây

Cây cao từ 3 – 4 m, có khí cao hơn. Thân và cành đều có hình trụ, bề mặt nhẵn có màu lục hoặc màu đỏ tía, cành non của cây có màu phấn trắng.

Lá mọc kiểu so le với nhau, xẻ sâu hình chân vịt, phân thành 7 thùy, đầu lá nhọn, mép có hình răng cưa, cả hai mặt đều nhẵn và có cuống dài.

Cụm hoa mọc thành chùy ở kẽ lá hoặc ở ngọn thân cây, cụm hoa được bao phủ bởi nhiều lá bắc. Hoa cái ở trên, hoa đực ở dưới, đài của hoa đực có 3 đến 5 răng cưa, có nhiều nhị, phân nhánh. Hoa cái có 5 lá đài rụng sớm, vòi nhụy hoa cái có màu đỏ, bầu 3 và có nhiều gai mềm.

Thuộc loại quả nang có màu tím nhạt hoặc màu lục, có gai mềm xung quanh, hạt 3, hình bầu dục dẹt, bề mặt hạt nhẵn bóng và có những đốm đen hoặc xám.

Mùa ra hoa của Thầu dầu là vào tháng 2 – 6, quả từ tháng 8 – 10

Quả thầu dầu màu lục, có gai mềm xung quanh

Phân bố, sinh thái

Cây có nguồn gốc từ Châu Phi, ngoài ra còn thấy mọc ở vùng cận nhiệt đới Himalaya Ấn Độ. Hiên nay cây được trồng nhiều nơi như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc, Hoa Kỳ, một số nước thuộc vùng Liên Xô trước đây của Trung Á.

Ở Việt Nam cây đã có từ lâu đời, trước đây cây được trồng nhiều ở vùng sông Hồng, sông Đuống và sông Lô, những năm gần đây cây đã bị thu hẹp dần.

Thầu dầu là cây ưa sống ở những chỗ sáng và thoáng rộng. Tùy theo đặc điểm của mỗi loài mà chúng thích nghi ở những điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, ẩm hoặc hơi khô. Các giống cây được trồng ở các vùng Trung Á và Trung Quốc có khả năng chịu được nhiệt độ thấp, cây có thể chịu được ngập úng trong 1 đến 3 ngày.

Cây ra hoa quả hằng năm, Thầu dầu có giá trị sử dụng cao, hạt Thầu dầu dùng để lấy dầu béo, lá lấy nuôi tằm và làm phân xanh rất tốt, còn cây làm củi đun.

Thường thu hoạch hạt trước mù lũ, cây trồng xen với đậu đỏ vẫn cho thu hoạch cao.

Thành phần hóa học

Trong hạt của Thầu dầu có tới 40 – 50 % là dầu béo, 25 % chất anbuminoit, một chất tinh thể và ni tơ, đường muối, axit malic, xenluloza, rixinin và rixin và axit undexylenic.

Chất rixin trong hạt chiếm tỷ lệ 3 – 5 % là một protein rất độc.

Rixinin trong lá non 1,3 %, lá úa là 2,5 %, trong hạt là 0,15%. Trong lá còn chứa axit tactric, axit xitric, axit corydalic, nhiều axit amin,..

Cách sử dụng

Thường thu hoạch hạt vào tháng 4 – 5.

Bộ phận dùng: lá, hạt, rễ phơi khô và dầu lấy ép từ hạt

Dầu ép từ hạt của Thầu dầu

Tác dụng của Thầu dầu

Theo y học cổ truyền:

  • Hạt của Thầu dầu có vị cay, ngọt tính bình và rất độc có tác dụng nhuận tràng, tẩy xổ.
  • Rễ có vị đắng, cay, tính bình và hơi độc. Có tác dụng lợi thấp, thanh nhiệt, trấn kinh thông kinh lạc.

Dầu của Thầu dầu được dùng làm thuốc tẩy xổ với liều 10 – 15g ở trẻ em, người lớn 30 – 50g

Trong nghành công nghệ dầu của cây còn được sử dụng dùng làm dầu máy bay, tổng hợp nước hoa, chế sunforixinat dùng để in lên vải, …

Lá và hạt của Thầu dầu dùng để chữa bệnh sót nhau vì đẻ khó, cảm méo miệng.

Dùng lá tươi giã nát chưng với giấm để chữa vết thương sưng tấy, viêm tuyến vú.

Nấu nước lá tắm chữa bệnh ghẻ lở và ngứa.

Rễ của thầu dầu chữa uốn ván do nhiễm trùng với liều từ 30 – 40g, phối hợp với dây đau xương và lá lót chữa bệnh xương khớp đau tê nhức.

Khô dầu của cây rất độc dùng giã nhỏ cho vào chuồng phân để vừa diệt sâu bọ vừa làm phân bón trừ sâu.

Trong y học Trung Quốc, dầu ép từ hạt của Thầu dầu có tác dụng giảm đau, chống viêm, chữa mụn nhọt, nhiễm khuẩn có mủ ở da.

Bài thuốc có Thầu dầu

Chữa các bệnh về phong thấp, đau nhức cơ xương khớp, tay chân mỏi

Rễ Thầu dầu 30g, lõi thông 20g, dây đau xương 20g, sắc uống chia làm 3 lần trong ngày

Thuốc làm sẩy thai ở phụ nữ

Rễ Thầu dầu tía 30g, rễ chỉ thiên, rễ cau, rễ rau ngót, rễ cây me chua đất, rễ cây trinh nữ mỗi vị thuốc 20g, đem sắc uống. Chia 2 lần uống trong một ngày, sắc uống trong 7 – 10 ngày

Chữa bệnh về hô hấp như hen suyễn

Lá Thầu dầu tía 12g, phèn phi 8g, hai vị đem giã nhỏ rồi trộn với thịt heo băm nhuyễn, rồi gói trong lá sen non đun nấu chín ăn

Chữa phụ nữ bị sa dạ con

Nhân hạt Thầu dầu đã bóc bỏ vỏ 60g đem giã nhỏ trộn với rượu lượng vừa đủ thành bột nhão, đem hỗn hợp đắp vào huyệt Bách hội và huyệt Quan nguyên. Dùng vải băng lại rồi nằm tư thế nghiêng co hai chân để từ 3 đến 5 giờ mở ra. Mỗi ngày đắp 1 lần, trong 3 đến 5 ngày, không nên để quá lâu vì dễ bị rộp da.

Lưu ý khi dùng Thầu dầu tía

Hiện nay ngoài tự nhiên có nhiều loại thầu dầu, xong chỉ có thầu dầu có lá màu tím [Thầu dầu tía] được sử dụng để làm thuốc.

Lá và hạt thầu dầu tía đều có độc [đặc biệt là hạt] nếu dùng trên 10 hạt có thể gây chết người.

Do có độc như vậy nên trong Đông y không dùng hạt Thầu dầu làm thuốc uống trong, mà chỉ làm thuốc đắp ngoài.

Thầu dầu là một vị thuốc thường dùng lấy dầu ép từ hạt, rễ và lá để chữa các bệnh về phong thấp, xương khớp đau nhức, các mụn nhọt viêm mủ da,tẩy xổ nhuận tràng,…Tuy nhiên trong cây có chứa những hoạt chất rất độc cần lưu ý. Vậy nên bạn đọc cần tư vấn các bác sĩ chuyên khoa để có những thông tin và điều cần lưu ý khi sử dụng. YouMed mãi là người bạn đồng hành cùng bạn!

Video liên quan

Chủ Đề