Cách tiến hành phương pháp nêu gương
Ngày đăng:
14/10/2021
Trả lời:
0
Lượt xem:
139
Lần đầu tiên làm quen với bài tập tốt nghiệp cuối khoá đối với em thật mới mẻ và bỡ ngỡ. Được sự giúp đỡ của các thầy cô giáo Khoa giáo dục mầm non - trường Đại học sư phạm I Hà Nội. Đặc biệt là sự giúp đỡ của thầy Đinh Hồng Thái - người hướng dẫn em hoàn thành bài tập này. Đề tài của em đã được hoàn thành, để có được cơ sở thực tiễn của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ phải kể đến sự giúp đỡ tạo điều kiện của Ban giám hiệu trường Tân Lập và 2 cô giáo chủ nhiệm lớp 5 tuổi của trường. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học sư phạm - khoa giáo dục mầm non. Đặc biệt là thầy giáo Đinh Hồng Thái. Đồng thời xin cảm ơn Ban giám hiệu và 2 cô giáo trường mầm non Tân Lập - Huyện Lạc Sơn - tỉnh Hoà Bình đã tạo điều kiện cho em hoàn thành tốt bài tập nghiệp vụ cuối khoá này. MỤC LỤC PHẦN I: MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài II. Mục đích nghiên cứu III. Nhiệm vụ nghiên cứu 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận 2. Thực hiện sư phạm, tác động sư phạm để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá 3. Đề xuất và những kiến nghị sư phạm. IV. Phương pháp nghiên cứu. 1 1. Đọc tài liệu 2. Thực hiện sư phạm 3. Xử lý kết quả. PHẦN II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương I: Cơ sở lý luận 1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo. Chương II. Mô tả quá trình nghiên cứu I. Khảo sát nhận thức hành vi giao tiếp của trẻ II. Biện pháp tác động để giáo dục hành vi giao tiếp có văn hoá cho trẻ mẫu giáo. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM PHẦN IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO PHẦN I : MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI : 1. Cơ sở lý luận: Đất nước ta đang trên bước đường công nghiệp hóa, hiện đại hoá; nền kinh tế phát triển mạnh. Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của mỗi dân tộc, của cộng đồng. Trẻ em hôm nay là những công dân của thế giới ngày mai. Vậy việc bảo vệ chăm sóc trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của tòan xã hội và của mỗi gia đình. Thế giới trẻ thơ- một thế giới đã từng là đề tài cuả biết bao cuốn sách, nguồn cảm xúc bao nhiêu tác gỉa. Tuổi mẫu giáo là thời kỳ vàng ngọc để phát triển những năng khiếu về văn hoá nghệ thuật của mỗi con người. Từ thực tế cũng như nhiều công trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học, giáo dục học đã cho chúng ta thấy rằng trong những năm đầu của cuộc đời đứa trẻ, hệ thần kinh mềm mại hơn, non yếu hơn. Trong quãng thời gian đó rất dễ hình thành những nét cơ bản của cá tính và những thói quen nhất định. Sau đó những phẩm chất tâm lý, nhân cách của con người dần dần được định hình. 2. Cơ sở thực tiễn: Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo thì việc tiếp nhận vốn tri thức, những phẩm chất nhân cách con người cũng như văn hoá, nghệ thuật thẩm mỹ thông qua sự vật, hiện tượng xung quanh gần gũi với trẻ. Cũng 2 vì thế, khi chúng ta lo lắng nhiều tới việc nâng cao trình độ văn hoá nghệ thuật của người lớn (người mẹ, người cô đó chính là nhằm tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của thế hệ trẻ thông qua những người gần gũi nhất đối với trẻ thơ) và việc giáo dục trẻ đòi hỏi chúng ta phải uốn nắn từ đầu như nhân dân ta đã đúc kết thành những kinh nghiệm sâu sắc lưu truyền cho đời sau: Uốn cây từ thưở còn non Dạy con từ thưở hãy còn thơ ngây. Hay: Bé không vin, cả gãy cành. Qua thời gian học tập tôi đã được các thầy cô giáo giảng dạy, hướng dẫn, bản thân tôi thấy rõ việc giáo dục thế hệ trẻ cụ thể là lứa tuổi mầm non cần được chăm sóc giáo dục để tạo nên những con người mới xã hội chủ nghĩa có phẩm chất đạo đức, có tài năng và có thể lực cường tráng để phù hợp với thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Vì vậy, tôi đã chọn việc nghiên cứu Thực trạng sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo lớp 5 tuổi ở trường mầm non làm đề tài cho bài tập tốt nghiệp khoá học. Giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua phương pháp nêu gương - đánh giá là phương pháp dùng những tấm gương điển hình về những hành vi, phẩm chất đạo đức để giáo dục trẻ học tập noi theo hoặc không lặp lại đồng thời nhà giáo dục (cô giáo, thầy giáo) tỏ thái độ đồng tình hay không đồng tình của người lớn trước việc làm, hành vi , cử chỉ của trẻ từ đó đưa ra nhận xét, tự nhận xét trong từng tình huống hoặc hoàn cảnh cụ thể Nghĩa là phải tiến hành daỵ trẻ phân biệt được các hành vi đạo đức tốt, cần học tập, phát huy và những hành vi xấu cần sửa chữa, không được lặp lại trong các tình huống tương tự Tất cả những điều đó sẽ giúp chúng ta đạt được ý nguyện : Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai. Thế giới của công nghệ thông tin, thế giới của trí tuệ, tài năng nhưng không thể thiếu những chuẩn mực đạo đức truyền thống vốn có của dân tộc. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : 3 Nghiên cứu lý luận và thực trạng sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo . ở trường mầm non và từ đó đưa ra một số kiến nghị góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng PPGD trong quá trình giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. III.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU : Đối tượng nghiên cứu : Thực trạng sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Khách thể nghiên cứu : Quá trình sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. Khách thể điều tra : Quá trình được thực hiện với cô, . CBQL, cháu mẫu giáo. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU : 1. Xây dựng cơ sở lý luận về sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non.. 2. Khảo sát thực trạng sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non. 3. Kết luận và kiến nghị sư phạm V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích - tổng hợp lý thuyết. 2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra, đàm thoại, quan sát, nghiên cứu sản phẩm hoạt động của trẻ. 3. Phương pháp sử lý số liệu: Dùng toán thống kê. 4 PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC GIÁO DỤC HÀNH VI GIAO TIẾP CÓ VĂN HOÁ CHO TRẺ MẪU GIÁO . I. Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo thông qua sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá. 1. 1. Đặc điểm của trẻ mẫu giáo: Để tiến hành giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo thông qua sử dụng nhóm phương pháp nêu gương đánh giá có hiệu quả, chúng tôi đã tìm hiểu rõ về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ mẫu giáo cũng như phân tích nhân tố có tính quy luật chi phối quá trình giáo dục này. a. Đặc điểm sinh lí của trẻ mẫu giáo: " Trẻ em như búp trên cành", cơ thể trẻ là cơ thể đang lớn, nhưng trẻ không phải là" Người lớn thu nhỏ" mà có những đặc điểm khác với người lớn. Muốn làm tốt công tác chăm sóc, giáo dục trẻ phát triển toàn diện, cô giáo mầm non cần hiểu rừ đặc điểm cơ thể trẻ em. Mỗi trẻ em tuổi mầm non là một chủ thể tích cực, sự phát triển của trẻ mang bản chất văn hoá-xó hội, cú tớnh duy nhất, phụ thuộc nhiều vào tỡnh huống và là kết quả của quỏ trỡnh nội tõm hoỏ những gỡ chỳng trải nghiệm, học được nhờ sự tương tác với người khác (cha mẹ, người thân trong gia đỡnh, cụ giỏo, trẻ cựng lớp. Vậy ngay từ tuổi mầm non, trẻ cần phải được dạy như thế nào? Làm thế nào để lập được một bản đồ về sự phát triển nhận thức, kỹ năng sống và hình thành các chuẩn mực hành vi đạo đức xã hội của trẻ, đánh giá chính xác đâu là điểm mạnh, điểm yếu của trẻ? Và phải có những chiến lược nuôi dưỡng, bồi đắp như thế nào, để hỗ trợ kịp thời sự phát triển trí tuệ, nhân cách , tư cách đạo đức sớm giỳp trẻ thành cụng? 5 Với chương trỡnh Phỏt triển trớ tuệ và nhân cách cho trẻ từ 3 - 6 tuổi,Thạc sĩ Nguyễn Thành Đoàn, Giám đốc công ty Con Đường Mới EQuest cho biết chương trỡnh được xây dựng dựa trên các tiêu chí của trẻ thành công là phát triển toàn diện về đạo đức, nhân cách và trí tuệ bao gồm: 1. Biết tạo dựng các mối quan hệ tốt đẹp với người khác 2. Đồng cảm và biết chia sẻ với người khác 3. Tốt bụng và lịch sự 4. Thụng minh 5. Sỏng tạo 6. Sẵn sàng vượt khó, có kỹ năng giải quyết vấn đề 7. Đưa ra quyết định sáng suốt, nghĩ và hành động theo chuẩn mực xó hội 8. Độc lập, tự tin, kiên trỡ 9. Kỹ năng giao tiếp tốt Để đạt được những tiêu chí đó, chúng ta cần: - Hiểu biết tốt hơn về đặc điểm tâm sinh lý trẻ, hiểu được đâu là điểm mạnh cần kích hoạt và đâu là điểm thiếu hụt cần bổ sung, bồi đắp kịp thời. - Nắm được các phương pháp, kỹ năng giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo bằng sử dụng phương pháp nêu gương - đánh giá ... để trẻ có thể nhận ra những hành vi đạo đức tốt , cần học tập và những hành vi không tốt , không được lặp lại hay làm theo nhằm góp phần phỏt triển nhõn cỏch, đạo đức của trẻ ngay từ tuổi mầm non. Với nguyờn tắc và quy trỡnh đào tạo như: Dựa trên đặc điểm phát triển hiện tại của trẻ Tụn trọng vốn tự nhiờn của trẻ Dạy trẻ bằng các trải nghiệm thực tiễn trong hoạt động và trũ chơi, đặc biệt trong tiết nhận xét, đánh giá cuối tuần. b. Đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo : 6 Có nhiều khoa học nghiên cứu về trẻ em, mỗi khoa học nghiên cứu trẻ em theo khía cạnh riêng, bằng cách riêng của mình. Tâm lý học trẻ em quan tâm đến quá trình phát triển trẻ em, hình thành nhân cách và các chuẩn mực đạo đức, trở thành người lớn như thế nào. Tâm lý học trẻ em là khoa học nghiên cứu những đặc điểm và quy luật phát triển tâm lý của trẻ , xem sự hoạt động của trẻ, sự phát triển các quá trình , phẩm chất tâm lý và sự hình thành nhân cách , tư cách đạo đức của trẻ bằng con đường nào, theo cơ chế nào. Có thể nói một cách khái quát rằng đối tượng của tâm lý học trẻ em là sự phát triển tâm lý của trẻ , những đặc điểm, những quy luật đặc trưng cho sự phát triển tâm lý ở mỗi độ tuổi để từ đó áp dụng các biện pháp giáo dục phù hợp trong mọi lĩnh vực cho trẻ, trong đó có không thể không nói đến vai trò của nhóm phương pháp nêu gương đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo. Tâm lý học trẻ em thường xuyên sử dụng những thành tựu giải phẫu sinh lý lứa tuổi , nhất là những số liệu về sự phát triển của hệ thần kinh và hoạt động thần kinh cao cấp của trẻ. Nhiệm vụ cơ bản của giáo dục , nhất là giáo dục đạo đức cho trẻ là đảm bảo sự phát triển của trẻ , chuẩn bị cho trẻ tâm thế tốt nhất bước vào cuộc sống. Để làm tốt việc này , nhà giáo dục phải nắm vững những đặc điểm và quy luật phát triển của trẻ , nếu không sẽ bị mò mẫm, dễ sai lệch. Trong lĩnh vực giáo dục đạo đức ở trường mầm non , tâm lý học trẻ em có một vị trí đặc biệt . Từ việc tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi trên lớp hàng ngày đến những tiết nhận xét , đánh giá cuối tuần , muốn đạt được kết quả tốt , người giáo viên mầm non cần phải biết những đặc điểm và quy luật phát triển tâm lý của trẻ . Tâm lý học trẻ em không những giúp cho người giáo viên mầm non có khả năng hiểu trẻ mà còn biết vun trồng và phát triển tất cả những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của trẻ. Tránh được những thiếu sót trong công tác giáo dục trẻ trong trong giai đoạn phát triển của trẻ. Căn cứ vào sự thay đổi trong cấu trúc tâm lý của trẻ và sự trưởng thành cơ thể của trẻ em , các nhà tâm lý học đã chia ra một số thời kỳ chủ yếu trong sự phát triển tâm lý của trẻ em. Trong đó ở tuổi mẫu giáo (3 đến 6 tuổi) hoạt động chủ đạo của trẻ em là vui chơi. Dựa vào đặc điểm này, người GV mầm non có thể quan sát và 7 nhẹ nhàng , khéo léo giáo dục đạo đức cho trẻ thông qua những trò chơi của trẻ để trẻ lĩnh hội một cách tự nhiên và hiệu quả. Bên cạnh đó GV cũng có thể sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá một cách hiệu quả sau mỗi giờ chơi, buổi học hoặc tiết nhận xét đánh giá cuối tuần. Tuy nhiên khi sử dụng phương pháp này cần chú ý đảm bảo tính chính xác , công bằng và không quá cứng nhắc để trẻ dễ dàng nhận ra lỗi lầm, hành vi , cử chỉ không tốt của mình để tiếp thu, thay đổi. 1.2. Lý luận về phương pháp nêu gương đánh giá: 1.2.1. Phương pháp nêu gương: Nêu gương là những phương pháp dùng những tấm gương điển hình về những hành vi , phẩm chất đạo đức để giáo dục trẻ học tập ,noi theo hoặc không lặp lại. Khi sử dụng phương pháp này cần lựa chọn những điển hình phù hợp với trẻ (những tấm gương có thật trong cuộc sống , những tấm gương được đưa ra trong các tác phẩm , những gương tốt ở trong lớp hoặc trong gia đình đặc biệt là tấm gương về nhân cách của chính cô giáo để giáo dục trẻ ) và chủ yếu sử dụng những tấm gương tốt . 1.2.2.Phương pháp đánh giá : Phương pháp đánh giá là phương pháp trong đó nhà giáo dục tỏ thái độ đồng tình của người lớn trước việc làm, hành vi, cử chỉ của trẻ từ đó đưa ra nhận xét , tự nhận xét trong tong tình huống hoặc hoàn cảnh cụ thể Phương pháp này gồm hai phương pháp cụ thể như sau: -Phương pháp khen ngợi : Khen ngợi là phương pháp tác động đến trẻ nhằm xác nhận ,đánh giá , biểu dương những tiến bộ mà trẻ đã đạt được . Khen ngợi có tác dụng gây cho trẻ một cảm giác vui sướng , phấn khởi, tin vào sức mình mà cố gắng vươn lên đạt được những tiến bộ mới . Khen ngợi không những có tác dụng động viên đối với những trẻ được khen mà còn có tác dụng củng cố nhận thức , động viên trẻ khác noi theo. Khi khen ngợi cần chú ý : 8 + Khen phải có chừng mực không nên tập chung vào một trẻ vì làm như thế trẻ chỉ quen với những lời khen do vậy khi có thiếu sót trẻ khó tiếp thu sự uốn nắn. + Khen ngợi phải đúng, kịp thời : Mức độ cố gắng của trẻ đến đâu thì khen trẻ đến đó tránh khen ngợi tràn lan, chung chung . Đặc biệt đối với trẻ nhút nhát cần khuyến khích những tiến bộ dù là rất nhỏ .Khen phải chỉ rõ khen cái gì ? tại sao được khen?. + Các hình thức khen phải đa dạng : Nụ cười, cử chỉ , lời khuyến khích , một sự tin cậy, hoặc bằng hiện vật như cờ , hoa, phiếu bé ngoan, tranh ảnh - Phương pháp chê chê trách: Chê trách cũng là một phương pháp tác động mạnh mẽ đến trẻ . Chê trách là một hình thức đánh giá hành vi giúp trẻ tránh được những hành vi xấu. Sử dụng phương pháp này nhằm gây cho trẻ phạm sai lầm có một cảm xúc hối hận từ đó giúp trẻ ngăn ngừa được những hành động xấu. Khi sử dụng phương pháp này phải khéo léo vì chê trách không đúng và thiếu công bằng sẽ gây cho trẻ cảm giác khó chịu , cảm giác bị lăng nhục . Do vậy ,chê trách phải đúng lúc và phải có những yêu cầu đối với những hành động của trẻ để ngăn ngừa được những hành động xấu , không để những hành động ấy phát triển thành thói quen xấu . Chê trách cũng được sử dụng bằng nhiều hình thức khác nhau : Chê trách , phê bình, cưỡng bức. Cưỡng bức là phương pháp giáo dục đồng thời là biện pháp trách phạt . Khi trách phạt cần giúp trẻ hiểu rõ vì sao bị trách phạt ? tuyệt đối không sử dụng trách phạt về thể xác như : bắt trẻ nhị đói, đánh đập, nhốt trẻ vào nơi không phù hợp Lưu ý: Cần coi trách phạt là biện pháp ngoại lệ , chỉ dùng khi thấy thật cần thiết và dùng càng ít càng tốt. 9 CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG SỬ DỤNG NHÓM PHƯƠNG PHÁP NÊU GƯƠNG - ĐÁNH GIÁ TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN Ở TRƯỜNG MẦM NON NGỌC LÂM HUYỆN MỸ HÀO TỈNH HƯNG YÊN. 2. 1. Khái quát về trường mầm non : Trường mầm non Ngọc Lâm thuộc xã Ngọc Lâm, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Trường gồm có 14 lớp , trong đó có 4 lớp mẫu giáo lớn (trẻ 5-6 tuổi). Để nắm vững thực trạng sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non, tôi đã tiến hành khảo sát 25 cháu mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi của trường mầm non Ngọc Lâm, xã Ngọc Lâm, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. 2.2. Thực trạng sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non Ngọc Lâm : 2.2.1. Thực trạng về nhận thức : - Khảo sát nhận thức của trẻ dựa trên các tiêu chí nhận thức bằng phương pháp điều tra ,quan sát ,trò chuyện. Tiêu chí 1 : Biết chào hỏi. Tiêu chí 2 : Biết thưa gửi. Tiêu chí 3 : Cảm ơn xin lỗi Tiêu chí 4 : Biết giữ gìn vệ sinh thân thể Tiêu chí 5 : Thích chơi với bạn Tiêu chí 6 : Không tranh giành đồ chơi với bạn Tiêu chí 7 : Biết yêu thương những người gần gũi. Tiêu chí 8 : Giao tiếp mạnh dạn, tự tin, lễ độ. Tiêu chí 9 : Biết yêu quý cây trồng Tiêu chí 10 : Biết giữ gìn vệ sinh môi trường 10 Tiêu chí 11 : Biết giúp đỡ bạn Tiêu chí 12 : Giữ và cất lấy đồ chơi đúng nơi quy định. Tiêu chí 13 : Phân biệt được sai đúng. Tiêu chí 14 : Hứng thú chơi và học. Tiêu chí 15 : Hứng thú tham gia các hoạt động tập thể. Tổng số trẻ tôi chọn khảo sát nghiên cứu là 25 cháu. STT HỌ TÊN TRẺ NGÀY THÁNG NĂM SINH 1 BÙI NGỌC ANH 20/3/1998 2 BÙI KHÁNH THƯƠNG 20/10/1998 3 BÙI THỊ VIỆT 10/2/1998 4 BÙI THỊ HƯƠNG 3/2/1998 5 BÙI VĂN QUYỀN 7/11/1998 6 BÙI ANH TUẤN 11/5/1998 7 BÙI THANH TÙNG 30/3/1998 8 BÙI VĂN TRUNG 25/5/1998 9 BÙI MINH PHƯƠNG 5/5/1998 10 BÙI THU HUYỀN 30/8/1998 11 BÙI VĂN HÙNG 13/7/1998 12 BÙI VIỆT CHÍNH 2/4/1998 13 BÙI HỮU CHÍNH 27/1/1998 14 1/10/1998 BÙI THỊ HÀ 15 BÙI THỊ THẢO 12/7/1998 16 QUÁCH THỊ TRANG 22/6/1998 17 BÙI THỊ HẢO 6/2/1998 18 BÙI VĂN ĐẠT 6/6/1998 19 BÙI THUỶ QUYÊN 16/3/1998 20 BÙI THỊ NGA 4/8/1998 21 BÙI VĂN TÀI 10/12/1998 11 22 23 BÙI VĂN THÀNH 15/8/1998 BÙI THỊ NGUYỆT 16/6/1998 24 BÙI VĂN MINH 2/9/1998 25 QUÁCH VĂN HOÀNG 30/7/1998 Trên đây là 25 cháu trong đối tượng nghiên cứu, các cháu ở cùng một độ tuổi nên việc theo dõi và đánh giá cũng thuận tiện. Ngoài việc quan sát theo dõi ghi chép tự nhiên ra tôi còn trò chuyện gợi ý để trẻ giao tiếp một cách thoải mái tự nhiên những điều trẻ biết, trẻ chơi và trẻ định làm. Khi xây dựng kế hoạch khảo sát trẻ, chúng tôi đề ra 15 tiêu chí trên để đánh giá phân loại theo 4 mức độ: tốt, khá, trung bình, yếu tương ứng với số điểm của từng tiêu chí, cụ thể như sau : Tốt : 4 điểm Khá : 3 điểm Trung bình : 2 điểm Yếu : 1 điểm Loại tốt : Trẻ có thói quen giao tiếp thường xuyên Loại khá : Trẻ đã có ý thức nhưng chưa có thói quen thường xuyên, đôi khi phải có sự nhắc nhở của người lớn. Loai trung bình : Khi thực hiện phải có sự nhắc nhở của người lớn trẻ mới làm nhưng chưa đạt yêu cầu. Loại Yếu : Trẻ chưa có ý thức thực hiện việc giao tiếp trong khi chơi và khi học. 2.2.2. Thực trạng về tổ chức: Sau thời gian khảo sát, nghiên cứu từng tiêu chí đến từng trẻ tôi đã ghi lại cụ thể như sau 12 STT TÊN TIÊU CHÍ LOẠI TỐT LOẠI KHÁ TB YẾU T.số trẻ Tỷ lệ % T.số trẻ Tỷ lệ % T.số trẻ Tỷ lệ % T.số trẻ Tỷ lệ % 1 Biết chào hỏi 0 0 4 16% 15 60% 6 24% 2 Biết thưa gửi. 0 0 2 8% 19 76% 4 26% 3 Cảm ơn xin lỗi 0 0 3 12% 20 80% 2 8% 4 Biết giữ gìn VSTT 0 0 5 20% 18 72% 3 12% 5 Thích chơi với bạn 0 0 7 28% 16 64% 2 8% 6 Không tranh giành đồ chơi của bạn 0 0 4 16% 15 60% 6 24% 7 Biết yêu thương những người gần gũi 0 0 10 40% 10 40% 5 20% 8 Giao tiếp mạnh dạn, tự tin lễ độ 0 0 0 0% 10 40% 15 60% 9 Biết yêu quý cây trồng 0 0 2 8% 16 64% 7 28% 10 Biết giữ gìn vệ sinh môi trường 0 0 5 20% 18 72% 2 8% 11 Biết giúp đỡ bạn 0 0 6 24% 14 56% 4 16% 12 Giữ và cất lấy đồ chơi đúng nơi quy định 0 0 4 16% 17 68% 4 16% 13 Phân biệt được sai đúng 0 0 4 16% 15 60% 6 24% 14 Hứng thú chơi và học 0 0 10 40% 13 52% 2 8% 15 Hứng thú tham gia các hoạt động tập thể 2 8% 10 40% 12 48% 1 4% Trong quá trình khảo sát nghiên cứu, phương pháp chính của tôi là theo dõi, ghi chép, trò chuyện. Vì vậy, trẻ giao tiếp hoàn toàn tự tin thoải mái nên kết quả điều tra theo từng tiêu chí cũng như sự giao tiếp từng trẻ là hoàn toàn trung thực. Phải nói rằng các cháu ở 13 đây vô cùng hiếu động, các cháu luôn muốn nói và thích nói, thích chơi với đồ vật và bạn bè. Kết quả của từng trẻ thể hiện trên các tiêu chí và số điểm trên các tiêu chí như sau : Loại tốt : Từ 40 - 60 điểm Loại khá : Từ 35 - 39 điểm Loai trung bình : Từ 29 đến 34 điểm. Loại yếu : Từ 15 đến 28 điểm. Trên cơ sở cho điểm như vậy tôi thấy số cháu được xếp loại tốt là 3 cháu = 12% 1. Bùi Khánh Thương: 43 điểm 2. Bùi Việt Chính: 41 điểm 3. Quách Thị Trang: 40 điểm Số trẻ đạt loại khá là : 7 cháu = 28% Số trẻ đạt loại trung bình là 11 cháu = 44 % Số trẻ loại yếu là : 4 cháu = 16 % đó là các cháu : 1. Bùi Thị Nguyện: 20 điểm 2. Bùi Văn Tuấn: 21 điểm 3. Bùi Văn Trung: 23 điểm 4. Bùi Văn Thành: 24 điểm Để hiểu nguyên nhân dẫn đến khả năng giao tiếp có văn hoá không đồng đều của các cháu, tôi đã tìm hiểu thêm về hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống, nghề nghiệp của bố mẹtôi đã được gia đình các cháu nhiệt tình giúp đỡ, trao đổi và trò chuyện vui vẻ. Qua trao đổi tôi thấy trong 25 cháu tôi khảo sát điều tra đa số bố mẹ trẻ làm nông nghiệp và phần ít bố mẹ là cán bộ công nhân viên nhà nước. Đối với các cháu bố mẹ là cán bộ công nhân viên nhà nước thì điều kiện, thời gian chăm sóc các cháu nhiều hơn so với các cháu có bố mẹ làm nông nghiệp. Do đặc điểm địa bàn trường mầm non xã Ngọc Lâm nơi tôi khảo sát là địa bàn nông thôn, người dân chủ yếu làm nghề nông nghiệp, trình độ học vấn thấp, việc giao lưu ít nên họ chưa quan tâm mấy đến việc học hành của con cái mà chủ yếu vẫn lo kinh tế gia đình , có nhiều cháu nhà ở độc lập ít có bạn bè chơi cùng trong thời gian chưa được đến trường mầm non. Chính 14 những yếu tố trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Sự giao tiếp, tiếp xúc với bạn bè, với người lớn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ và ngôn ngữ là yếu tố quan trọng đối với mỗi người mẹ vì thông qua ngôn ngữ nói người mẹ có thể hiểu biết đánh giá sự phát triển ngôn ngữ của con về phương diện ngữ pháp, diễn đạt ý. 3. Phân tích kết quả khảo sát. Như chúng ta đã biết nhu cầu giao tiếp của trẻ trước hết là nhu cầu phát triển của chính bản thân trẻ. Song sự giao tiếp của trẻ với mọi người càng mang lại kết quả bao nhiêu thì lại kích thích trẻ tích cực chủ động học tập tiếng mẹ đẻ bấy nhiêu. xTích cực của trẻ trong việc nắm bắt và sử dụng ngôn ngữ là rất quan trọng. Vai trò của những người xung quanh như người lớn, cô giáo đặc biệt có ý nghĩa. Nó là một trong những nguồn động lực đối với sự hình thành và phát triển khả năng ngôn ngữ, hành vi giao tiếp có văn hoá của trẻ. VD : Cháu Bùi Khánh Thương có bố mẹ cùng làm nghề giáo viên, gia đình có điều kiện về kinh tế cũng như thời gian quan tâm chăm sóc cháu từ nhỏ, lên 1 tuổi cháu đi học nhà trẻ đến nay cháu đang theo học lớp mẫu giáo lớn, ngoài giờ đến lớp về nhà cháu được bố mẹ chú ý uốn nắn, rèn luyện cho cháu biết lễ phép, nói đủ câu, không nói tục chửi bậy, biết xin khi được nhận quà, cảm ơn khi được giúp đỡ. Bên cạnh đó gần như đối lập với các cháu mà tôi nêu ở trên là những cháu gia đình còn gặp nhiều khó khăn, sự chăm sóc quan tâm đến các cháu còn hạn chế dẫn đến nhận thức thiếu đầy đủ, khả năng giao tiếp kém. VD : Cháu Bùi Anh Tuấn có bố mẹ sống bằng nghề nông nghiệp nhưng ruộng ít con đông không có nguồn thu nhập thêm, thóc chỉ đủ ăn trong thời gian ngắn. Vì vậy, sau thời vụ lại phải đi làm thuê ở nơi khác hàng tháng trời mới về qua nhà, cháu ở nhà với ông bà nên chuyện quan tâm chăm sóc giáo dục con cái gặp rất nhiều khó khăn. Trên đây là 2 ví dụ trẻ sống trong hai môi trường khác nhau để chúng ta thấy rõ hơn rằng : ông bà cha mẹ, cô giáo và những người 15 lớn xung quanh trẻ luôn phải là tấm gương sáng cho trẻ noi theo ở bất cứ hoạt động giao tiếp nào. Người lớn cần phải chú ý nói hay, nói đúng; sử dụng từ chính xác, phong phú và luôn đưa ra cho trẻ những mẫu câu hay, những cử chỉ đẹp để trẻ học theo. Đặc biệt cần tạo tình huống cho trẻ đối thoại, tạo ra những câu hỏi để trẻ trả lời. Những cuộc đối thoại với người lớn sẽ giúp ta phát hiện những nhược điểm trong phát triển ngôn ngữ của trẻ và từ đó có phương hướng sửa chữa uốn nắn kịp thời. Vậy ở bất kỳ thời điểm nào, điều kiện nào nếu người lớn biết cách hướng dẫn, tác động, uốn nắn, bổ xung ngôn ngữ, cử chỉ một cách hợp lý với trẻ thì khả năng sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp của trẻ sẽ được phát triển đúng hướng và tốt hơn. Các yếu tố xã hội như trình độ văn hoá của bố mẹ, hành vi giao tiếp của những người xung quanh, phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, phim, truyệncó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển hành vi giao tiếp có văn hoá của trẻ mẫu giáo: Cách nghĩ, cách nói, cách diễn đạt của trẻ sẽ rõ ràng, mạch lạc hơn nếu thường xuyên có sự tác động của các yếu tố trên một cách thiết thực và toàn diện. Tạo điều kiện để phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ một cách tốt nhất, khoa học nhất nhằm tránh được những ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển ngôn ngữ và khả năng giao tiếp của trẻ. II. Những biện pháp sử dụng nhóm phương pháp nêu gương - đánh giá trong giáo dục đạo đức cho trẻ mầm non. 1.Tạo cảm xúc, tình cảm đạo đức về các chuẩn mực hành vi. Việc nắm các chuẩn mực hành vi dựa trên tình cảm của trẻ được bắt đầu từ lứa tuổi nhỏ dưới ảnh hưởng của điều kiện sống và môi trường xung quanh Ngay từ nhỏ trẻ đã có những cơ sở đầu tiên của lòng nhân ái: Quan hệ hoà thuận giữa trẻ với nhau, sự tôn trọng của người lớn. Tính nhạy cảm, lòng vị tha có được là do tính mềm dẻo của hệ thần kinh, giúp cho việc hình thành tính cách của trẻ. Ngôn ngữ cùng những ấn tượng mà trẻ nhận được trong những năm tháng đầu trở nên sâu sắc, phần lớn nó sẽ được gữi lại trong tình cảm và ý thức của trẻ suốt đời. Trẻ 5 - 6 tuổi thì mối quan hệ của trẻ được mở rộng và gắn bó với nhau hơn. Hành động xuất hiện định hướng được thể hiện rõ như giúp đỡ người khác, quan tâm yêu mến bạn bè Điều này 16 chứng tỏ sự nảy nở tình cảm đoàn kết giữa trẻ nhỏ với nhau, sự giúp đỡ lẫn nhau, quan tâm đến bạn và hoạt động có tổ chức. Để giáo dục hành vi đạo đức ở trẻ mẫu giáo, trước hết phải tạo cho các em có được những xúc cảm, tình cảm đạo đức và các chuẩn mực hành vi giao tiếp có văn hoá; cần tổ chức những hoạt động đa dạng phong phú để hình thành những cảm xúc, tình cảm đạo đức văn hoá và chuẩn mực hành vi cho trẻ qua các hoạt động, đặc biệt là trong tiết học kể chuyện, những ý tưởng trong sáng của nội dung truyện sẽ định hướng phát triển nhân cách trẻ. Trẻ noi gương làm việc thiện và thích có tính cách cao đẹp như những nhân vật trong truyện. Cần sử dụng các biện pháp thi đua, khen thưởng trong quá trình tổ chức chế độ sinh hoạt một ngày nhằm kích thích tính hứng thú của trẻ và ý thức tích cực sử dụng các chuẩn mực hành vi tham gia vào các hoạt động. Trong điều kiện tổ chức giáo dục trên tiết học ở trường mầm non và trong sinh hoạt hàng ngày, những tri thức và tình cảm của trẻ ngày càng được mở rộng từ đơn giản đến phức tap; từ chỗ chưa biết đến chỗ đã biết. 2. Tổ chức cho trẻ luyện tập để hình thành kỹ năng, kỹ xảo, thói quen giao tiếp có văn hoá phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Thói quen giao tiếp có văn hoá là toàn bộ những cử chỉ, điệu bộ, lời nói, cách cư xử của con người với nhau trong giao tiếp. Nó được lặp đi lặp lại nhiều lần và trong thời gian dài sẽ tạo thành thói quen. Đây là khâu quan trọng nhất của công tác giáo dục hành vi đạo đức cho trẻ mẫu giáo. Bởi vì những xúc cảm, tình cảm, những tri thức về chuẩn mực đạo đức đã trang bị cho trẻ kỹ năng hành động, trẻ nhất thiết phải được luyện tập một cách có hệ thống dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Song, tuỳ từng nội dung, từng lớp, từng trường, từng đối tượng học sinh mà lựa chọn các biện pháp và hình thức luyện tập cho phù hợp thông qua các trò chơi; đặc biệt là trò chơi thông qua việc xử lý tình huống trong sinh hoạt hàng ngày. Cần phối hợp sử dụng các hình thức giáo dục, luyện tập đỡ nhàm chán. Chú ý thực hiện các thói quen từ đơn giản đến phức tạp. Hành vi đạo đức của trẻ chỉ có thể được hình thành trong điều kiện trẻ phải biết và hiểu các chuẩn mực, các quy tắc và cố gắng thực hiện theo các chuẩn mực đó trong cuộc sống hàng ngày. Trong quá trình trẻ luyện tập trẻ tự rút ra cho mình kinh nghiệm hành động và 17 được thực hiện trong điều kiện nhất định, được củng cố và trở thành thói quen. Những động cơ hành vi đạo đức có giá trị sẽ làm cho thói quen của trẻ thêm bền vững và sâu sắc hơn. Việc hình thành thói quen giao tiếp đúng chuẩn mực đạo đức của trẻ không thể tổ chức như các hoạt động khác và càng không thể ấn định thời gian như những tiết học cụ thể mà phải đi vào thực tế cuộc sống hàng ngày của trẻ. Để giáo dục kỹ xảo thói quen hành vi đạo đức đúng trước hết cần tổ chức cuộc sống của trẻ thật tốt. Điều này có nghĩa là tổ chức các hoạt động của trẻ để mọi hành vi đạo đức của chúng với mọi người xung quanh được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành thói quen cần thiết. Việc giáo dục trẻ thói quen sử dụng những hành vi đạo đức chuẩn mực cần được thực hiện thường xuyên. Trong quá trình thực hiện giáo viên cần tiến hành tổ chức luyện tập để hình thành kỹ năng, kỹ xảo thói quen sử dụng hành vi đạo đức đúng đắn cho trẻ. Việc luyện tập đối với trẻ cần nâng cao dần mức độ như sau : - Từ dễ đến khó - Từ yêu cầu chỉ diễn tả bằng lời cách ứng xử của bản thân đến bằng hành động cụ thể. - Từ hình thức đơn giản đến phức tạp. - Luyện tập từng thao tác, từng chuẩn mực riêng lẻ đến luyện tập kết hợp các thao tác, nhiều chuẩn mực cùng một lúc; từ tình huống giả định đến tình huống có thực trong cuộc sống hàng ngày. Giáo viên cần luyện tập cho trẻ ở các hoạt động đa dạng, phong phú. Việc tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ và việc luyện tập đó phải được tiến hành thường xuyên để trở thành kỹ năng, kỹ xảo thói quen ứng xử đúng chuẩn mực đạo đức. 3. Hình thành ý thức về hành vi đạo đức ở trẻ. Để hành vi đạo đức ở trẻ được bền vững (hình thành thói quen) cần giúp trẻ thực hiện các hành vi một cách có ý thức. Vì trên cơ sở hình thành được ý thức trẻ mới làm chủ được hành động, hành vi của mình khi giao tiếp với mọi người xung quanh và sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động khác. Qua việc đánh giá hành vi của trẻ những hành động tốt sẽ được biểu dương, những hành động tốt này sẽ tạo được những cảm xúc tốt ở trẻ, hình thành những ý thức về 18 hành vi đạo đức và chuẩn bị cho trẻ những hành vi tốt sau này. Việc động viên trẻ đánh giá hành vi của mình một cách khách quan có ý nghĩa lớn trong việc hình thành ý thức về hành vi đạo đức ở trẻ. Người giáo viên tạo mọi tình huống, điều kiện thuận lợi để trẻ giao tiếp với nhau và giao tiếp với người lớn. Chính trong các tình huống giao tiếp đó các hành vi phù hợp với các chuẩn mực được bộc lộ và củng cố. Trẻ sẽ ý thức làm chủ hành vi của mình khi giao tiếp phù hợp đúng với các chuẩn mực. VD : Trong giờ ăn, ngủ, học các hoạt động như đi thăm quan, xem phim sẽ nảy sinh ra các tình huống : Cách chào hỏi nhau, cách nhường chỗ, nhường đường, cảm ơn Rõ ràng là những tình huống làm trẻ suy nghĩ để lựa chọn hành vi của mình làm sao cho phù hợp với chuẩn mực hành vi đạo đức. Trẻ ý thức và làm chủ được hành vi của mình. Nếu trong các tình huống đó trẻ ứng xử không đúng thì cô giáo cần nhắc nhở uốn nắn sửa sai cho trẻ để bản thân trẻ tự xây dựng ý thức, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp. Cùng với việc tạo ra các tình huống, các điều kiện để trẻ thực hiện các chuẩn mực hành vi trong cuộc sống cô giáo phải kịp thời nắm bắt, tận dụng và khai thác những tình huống xảy ra một cách ngẫu nhiên trong cuộc sống tập thể của lớp học để hình thành ý thức cho trẻ. PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ SƯ PHẠM Qua việc nghiên cứu, điều tra thống kê và sự phân tích trên ta có thể rút ra những kết luận sau đây: Để hình thành cho trẻ thói quen có hành vi đạo đức chuẩn mực ngay từ khi còn nhỏ thì vai trò của gia đình và trường mầm non là rất quan trọng. Trước hết phải nói đến trách nhiệm của những người lớn trong gia đình như ông, bà, bố, mẹ, anh chị Người lớn hơn luôn phải là người tốt, gương mẫu để trẻ noi theo. Phải gương mẫu từ lời nói, cử chỉ, việc làm để trẻ bắt chước và làm theo. Trong chương trình cần chú ý lồng ghép tích hợp các nội dung giáo dục lễ giáo thích hợp vào các tiết học cũng như các hoạt động 19 trong ngày của trẻ một cách linh hoạt ở mọi lúc, mọi nơi cho phù hợp với trẻ. Trẻ có ý thức để thực hiện hành vi đạo đức chuẩn mực. Song, để phát triển tốt cần cho trẻ giao tiếp rộng rãi với mọi người xung quanh, với bạn bè cùng học cùng chơi. Qua đây trẻ có điều kiện học hỏi lẫn nhau, điều đó sẽ mở rộng khả năng giao tiếp của trẻ. Chúng ta cần duy trì cho trẻ thường xuyên không chỉ trong giờ học mà còn trong các giờ chơi, trong các hoạt động mọi lúc, mọi nơi kích thích tính tích cực trong giao tiếp của trẻ. Cần kịp thời phát hiện những cháu nhút nhát trong giao tiếp để có biện pháp gợi mở dẫn dắt trẻ tham gia vào các hoạt động. Như vâỵ nhu cầu giao tiếp của trẻ trước hết là nhu cầu phát triển của chính bản thân trẻ, sự giao tiếp càng mang lại kết quả bao nhiêu càng kích thích trẻ tích cực chủ động thể hiện hành vi đạo đức cuả mình bấy nhiêu; cách nghĩ, cách nói của trẻ càng mạch lạc hơn. Vì vậy, cần phải có sự tác động các yếu tố trên một cách thiết thực và toàn diện để có thể tạo các điều kiện, phương tiện hành vi đạo đức chuẩn mực cho trẻ một cách tốt nhất. Một trong những điều kiện giáo dục đạo đức cho trẻ tốt nhất là áp dụng một cách linh hoạt các hình thức và các biện pháp phát triển ngôn ngữ, hành vi đạo đức cho trẻ. Áp dụng ở mọi lúc, mọi nơi cho phù hợp với lứa tuổi của trẻ trong cả quá trình chăm sóc giáo dục trẻ ở gia đình, nhà trường và xã hội. Ngành học mầm non cần nghiên cứu đưa vào chương trình chăm sóc trẻ nội dung và nhóm phương pháp nêu gương đánh giá trong giáo dục hành vi đạo đức cho trẻ mầm non, đặc biệt trong xã hội hiện đại ngày nay để việc giáo dục hành vi đạo đức cho trẻ đạt kết quả tốt hơn. Cần có chế độ đãi ngộ với giáo viên mầm non, nhất là giáo viên ngoài biên chế. Đảm bảo cho đời sống hàng ngày của giáo viên để giáo viên yên tâm công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong trường được tốt. 20 |