5 dấu hiệu hàng đầu của rối loạn lưỡng cực năm 2022

Rối loạn lưỡng cực

Rối loạn lưỡng cực, còn được biết là rối loạn hưng  – trầm cảm, là một loại rối loạn đặc trưng bởi giai đoạn trầm cảm có thể theo sau giai đoạn hưng cảm. Bất thường trong não và những nguy cơ khác là nguyên nhân gây ra các yếu tố cho người bị rối loạn có sự thay đổi bất thường trong tâm trạng, năng lượng, mức độ hoạt động, và khả năng hoạt động trong công việc hàng ngày, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến công việc và những mối quan hệ (NIMH, Rối loạn Lưỡng cực, 2016). Nếu không điều trị, rối loạn này có thể dẫn đến những hành vi nguy hiểm, những mối quan hệ và sự nghiệp bị hủy hoại hoặc thậm chí tự vẫn (WebMD, Bipolar Disorder Health Center, 2014).

Dân số Mỹ có tỉ lệ rối loạn lưỡng cực giữa 2-4% (Miklowittz & Johnson, 2009). Không có sự khác biệt giới trong loại rối loạn này. Tỷ lệ giữa nam nữ là 1,1:1 (APA, 2013). Gánh nặng bệnh lý của rối loạn lưỡng cực là rất lớn. Đây là nguyên nhân hàng đầu thứ sáu của người khuyết tật y tế trên toàn thế giới. Tỉ lệ thất nghiệp cao, khó khăn trong nhiệm vụ có liên quan tới công việc, chất lượng cuộc sống thấp và căng thẳng giữa các cá nhân có liên quan đến rối loạn lưỡng cực. Đây là một trong các chẩn đoán chăm sóc hành vi sức khỏe đắt tiền nhất, một phần là do thường bị chẩn đoán nhầm. Một trong những nghiên cứu vào 1998 ước tính tổng chi phí trong suốt cuộc đời của một người bị rối loạn lưỡng cực là 24 tỷ (Sajatovic, 2005)

Triệu chứng của rối loạn lưỡng cực

Cả lưỡng cực I và lưỡng cực II đều liên quan đến cơn hưng cảm hoặc hưng cảm nhẹ. Theo DSM-5, giai đoạn hưng cảm được đặc trưng bởi một giai đoạn bất thường riêng biệt và tâm trạng liên tục dâng cao, cởi mở hay cáu kỉnh, và cũng bao gồm cả liên tục tăng các hoạt động có mục tiêu. Giai đoạn này có kéo dài ít nhất một tuần và hầu hết các ngày trong hiện tại và gần như mỗi ngày.

Trong thời gian tâm trạng bị xáo trộn, ít nhất phải có sự xuất hiện của ba trong số những triệu chứng sau đây với một mức độ đáng kể và thay đổi đáng chú ý, khác hẳn hành vi bình thường. Những triệu chứng này được viết in nghiêng và chia thành bốn loại. Hãy thử xem xét những triệu chứng này thông qua một trường hợp dưới đây:

Duyên là một phụ nữ 21 tuổi, được đưa vào bệnh viện tâm thần trong giai đoạn hưng cảm. Cô ấy nói với mọi người rằng cô đến từ một vũ trụ khác và có khả năng chữa bệnh đặc biệt. Cô có tiền sử mắc rối loạn trầm cảm chủ yếu và đã được điều trị bằng một số liệu pháp tâm lý khi cô còn học cấp ba nhưng đã ngừng sau khi tốt nghiệp. Duyên đã có công việc được trả lương tốt và đã từng có mối quan hệ tình cảm. Vài tháng trước khi nhập viện, cô bắt đầu cảm thấy tâm trạng tốt một cách khác thường, tràn đầy năng lượng và tự tin. Tất cả mọi thứ dường như thật tốt đẹp.

Một ngày, cô cảm thấy sảng khoái lạ thường. Duyên đã bỏ ngang công việc của mình mà không cân nhắc hậu quả hay bất kỳ phương hướng hoặc việc làm nào khác. Mặc dù cô ấy ra khỏi nhà với số tiền chỉ đủ để mua một vé máy bay đến nhà bạn trai, cô ấy đã ở lại đó nhiều tuần. Trong quãng thời gian này, cô bị khó ngủ và tâm trạng của cô bắt đầu thay đổi. Một ngày nọ, trong một lần cãi nhau với bạn trai của cô, cô đã cởi hết quần áo mình trong một bãi đậu xe công cộng và từ chối mặc vào. Sau đó, Duyên thu dọn hành lý và đi nhờ xe về nhà.

Ở nhà, tâm trạng của cô thay đổi liên tục. Khoảnh khắc trước cô có thể vui vẻ và nhiệt tình với những ý tưởng, một thoáng sau cô đã chuyển sang nổi giận khi có người không đồng ý với mình. Cô đã đăng ký một lớp học golf đắt tiền mà cô không đủ khả năng chi trả và khi mẹ cô hủy nó, cô đã tức giận. Sau đó cô đã ra khỏi nhà, đi nhờ xe người lạ đến một quán bar và cuối cùng kết thúc chuyến đi bằng cách quan hệ tình dục với ba người trong số họ (Oltmanns & Emery, 2014)[1]

  1. Các triệu chứng cảm xúc:

Một người bị rối loạn lưỡng cực cảm thấy rất “phê” hoặc phấn chấn, như trong trường hợp của Duyên. Cô cảm thấy tốt một cách khác thường, tuy nhiên, cô cũng rất khó chịu và nhanh chóng trở nên tức giận khi một điều gì đó không xảy ra như cách của cô ấy muốn.

  1. Các triệu chứng nhận thức:

Nhiều bệnh nhân hưng cảm có báo cáo về những ý tưởng lướt nhanh qua tâm trí của họ trước khi họ thậm chí có thể diễn tả được những suy nghĩ đó. Một số cảm thấy những suy nghĩ như đang tăng tốc. Họ cũng dễ dàng bị các kích thích ngẫu nhiên làm phân tâm, theo báo cáo hoặc quan sát bởi những người xung quanh, và nghĩ rằng họ có thể làm được rất nhiều việc cùng một lúc. Sự vĩ cuồng cũng là một đặc trưng của giai đoạn hưng cảm. Duyên tin rằng cô không đến từ trái đất và có một sức mạnh đặc biệt là một ví dụ chứng minh tính tự vĩ cuồng này.

  1. Các triệu chứng thể lý

Trong trường hợp Duyên, cô gặp vấn đề với giấc ngủ trong giai đoạn hưng cảm nhưng cô luôn cảm thấy tràn đầy năng lượng. Một số người giảm nhu cầu ngủ hoặc không ngủ một chút nào (nghĩa là không thể ngủ hoặc chỉ ngủ có 2 tiếng đồng hồ và cảm thấy đủ năng lượng) và họ cũng trở nên năng động hơn bình thường, cũng như mức độ hoạt động của họ tăng lên.

  1. Các triệu chứng hành vi

Trong giai đoạn hưng cảm, một người có thể nói chuyện rất nhanh hay cảm thấy bị áp lực cần phải nói. Cô ấy cũng có thể tham gia quá nhiều vào các hoạt động dẫn đến hậu quả tai hại. Như trong trường hợp Duyên, cô đã quan hệ tình dục thiếu thận trọng với người lạ, hoặc đăng ký theo học một cái gì đó mà cô không đủ khả năng chi trả. Các ví dụ khác của việc này là đầu tư bất cẩn trong kinh doanh và mua sắm không kiểm soát (Oltmanns & Emery, 2014).

Một người trong giai đoạn hưng cảm nặng cũng có thể có các triệu chứng loạn thần như ảo giác hay ảo tưởng, và những triệu chứng này đi kèm để phản ứng lại với tâm trạng cực đoan của người đó. Ví dụ, trong giai đoạn hưng cảm, người có các triệu chứng loạn thần sẽ nghĩ rằng họ nổi tiếng, có một sức mạnh đặc biệt hoặc đến từ một vũ trụ khác. Ngược lại, trong giai đoạn trầm cảm, người ấy sẽ tin rằng họ là người vô gia cư hoặc không có một đồng xu nào ((NIMH, Bipolar Disorder, 2016).

Sự rối loạn này phải cản trở đáng kể đến chức năng hoạt động xã hội hoặc nghề nghiệp và không do bất kỳ tác động sinh lý hoặc tình trạng y học nào khác (APA, 2013).

Một người trải qua ít nhất một giai đoạn hưng cảm kéo dài ít nhất một tuần, hoặc các triệu chứng hưng cảm rất nghiêm trọng mà họ cần được phải nhập viện và điều trị ngay lập tức thì sẽ được chẩn đoán là rối loạn lưỡng cực loại I. Thông thường, những giai đoạn trầm cảm có thể xảy ra sau đó và kéo dài khoảng hai tuần (NIMH, Bipolar Disorder, 2016).

Những người bị rối loạn lưỡng cực loại II sẽ không trải qua một giai đoạn hưng cảm nghiêm trọng như trong rối loạn lưỡng cực loại I. Thay vào đó, họ trải qua một giai đoạn hưng cảm nhẹ và một giai đoạn trầm cảm. Các tiêu chí để chẩn đoán giai đoạn hưng cảm nhẹ cũng giống như những tiêu chí được dùng cho các giai đoạn hưng cảm. Tuy nhiên, độ dài và mức độ nghiêm trọng của giai đoạn hưng cảm nhẹ ít hơn so với giai đoạn hưng cảm. Các triệu chứng chỉ cần xuất hiện trong bốn ngày thay vì một tuần. Sự nhiễu loạn không nên làm suy giảm chức năng hoạt động xã hội hoặc nghề nghiệp, tuy nhiên, sự thay đổi tâm trạng trong một giai đoạn hưng cảm nhẹ phải được bạn bè, đồng nghiệp hay các thành viên trong gia đình để ý hoặc quan sát thấy (Oltmanns & Emery, 2014).

Một loại rối loạn lưỡng cực khác là cyclothymia, mãn tính nhưng ít nghiêm trọng hơn (Oltmanns & Emery, 2014). Một người được chẩn đoán mắc loại này sẽ trải qua nhiều giai đoạn của các triệu chứng hưng phấn nhẹ và rối loạn trầm cảm trong thời gian hai năm. Tuy nhiên, các triệu chứng không đáp ứng các yêu cầu của giai đoạn hưng cảm (NIMH, Bipolar Disorder, 2016) và phải không có bằng chứng của các giai đoạn trầm cảm chính và giai đoạn hưng cảm trong quãng thời gian này (Oltmanns & Emery, 2014).

Lưỡng cực có thể dễ dàng bị chẩn đoán sai thành rối loạn trầm cảm chủ yếu hoặc tâm thần phân liệt và điều này có thể dẫn đến những kết quả tiêu cực như sự chậm trễ trong việc được điều trị một cách hiệu quả. Thuốc chống trầm cảm, được sử dụng để điều trị rối loạn trầm cảm chủ yếu, được chỉ ra là không hiệu quả bằng thuốc cân bằng cảm xúc. Những người bị chẩn đoán rối loạn lưỡng cực sai có tỷ lệ nhập viện và cố gắng tự tử cao hơn so với những người được chẩn đoán chính xác (Sajatovic, 2005).

5 dấu hiệu hàng đầu của rối loạn lưỡng cực năm 2022

Hình: Pinterest

Nguyên nhân

Yếu tố xã hội

Một số chuyên gia đã tìm thấy sự gia tăng của các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống xảy ra nhiều tuần trước khi rối loạn lưỡng cực khởi phát. Những sự kiện căng thẳng này có xu hướng tích cực, trái ngược với các sự kiện dẫn đến trầm cảm. Một số bệnh nhân đã báo cáo rằng họ trải qua sự gia tăng những triệu chứng hưng cảm sau khi họ đạt được mục tiêu quan trọng đối với sự nghiệp của mình như được đề bạt lên vị trí quan trọng hay bắt đầu một mối quan hệ mới (Oltmanns & Emery, 2014). Các sự kiện cuộc sống tiêu cực có liên quan đến quá trình xảy ra của các triệu chứng trầm cảm (Miklowitz & Johnson, 2009).

Sự hạn chế trong hỗ trợ xã hội và gia đình có thể dẫn đến rối loạn lưỡng cực tái phát nhanh hơn.. Bệnh nhân sống chung với các thành viên trong gia đình hay chỉ trích và thù nghịch (được đo bằng cảm xúc thể hiện – EE (expressed emotion) cao) có tỷ lệ tái phát cao hơn so với những người khác (Oltmanns & Emery, 2014). Bệnh nhân sống với thành viên gia đình có EE cao có tỷ lệ mắc bệnh trong tương lai cao hơn 8 lần so với những người khác. Nói cách khác, sự hỗ trợ từ gia đình và bạn bè có thể dẫn đến một sự cải thiện tích cực đối với bệnh nhân bị rối loạn lưỡng cực (Alloy, Abramson, Urosevic, và al, 2005).

Yếu tố sinh học

Các chuyên gia tin rằng rối loạn lưỡng cực là một loại rối loạn não bộ, một phần vì vấn đề với các mạch não cụ thể và sự mất cân bằng của các chất dẫn truyền thần kinh tồn tại ở những bệnh nhân lưỡng cực (NIMH, Bipolar Disorder, 2016). Mức độ dopamine cao có thể liên quan tới các triệu chứng loạn thần, những suy nghĩ và hành vi vô lý (WebMD, Bipolar Disorder Health Center, 2014). Hoạt động quá mức của hệ thống dopamine đã được chứng minh đóng vai trò trung tâm trong việc phát triển rối loạn lưỡng cực (Salvadore, Quiroz, Machado-Vieira, & al, 2010). Ngoài ra, khiếm khuyết trong GABA, một loại chất dẫn truyền thần kinh, có thể đóng vai trò trong sự xuất hiện của rối loạn lưỡng cực (Benes & Berretta, 2001)

Rối loạn lưỡng cực có xu hướng di truyền trong gia đình. Trong các nghiên cứu về sinh đôi cùng trứng, nếu một người trong cặp sinh đôi có rối loạn lưỡng cực, cơ hội của người còn lại có chứng rối loạn tương tự có thể lên đến 70%. Điều này có nghĩa rằng di truyền có vai trò quan trọng trong sự hình thành rối loạn lưỡng cực (WebMD, Bipolar Disorder Health Center, 2014)..

Hệ thống hạch hạnh nhân – vùng dưới đồi có trách nhiệm trong việc điều tiết giao tiếp trong tình cảm và xã hội (Oltmanns & Emery, 2014). Một nghiên cứu hình ảnh MRI rối loạn lưỡng cực đã chỉ ra những điểm bất thường trong não của người bệnh so với não của những đối tượng khỏe mạnh tham gia thí nghiệm cho thấy hạch hạnh nhân và có thể cả đồi thị của người bệnh có kích cỡ lớn hơn. Tuy nhiên, nghiên cứu này cũng cho thấy không có sự liên quan đáng kể nào của những điểm bất thường này với các phép đo lâm sàng hoặc nếu nó có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của rối loạn lưỡng cực hay không (Strakowski, DelBello, Sax, & al, 1999). Một nghiên cứu gần đây hơn đã cho thấy rằng mức độ lưu lượng máu ở phần còn lại cao và chuyển hóa glucose ở hạch hạnh nhân xuất hiện ở những bệnh nhân hưng cảm. Điều trị hiệu quả cho thấy quá trình chuyển hóa hạch hạnh nhân ở bệnh nhân trở lại bình thường (Oltmanns & Emery, 2014).

Yếu tố tâm lý

Thuyết vệ hưng cho rằng các suy nghĩ vĩ cuồng là kết quả của những sự kiện được xem như một mối nguy hại đến lòng tự tôn mong manh. Những suy nghĩ này hoạt động để ngăn ngừa nhận thức trầm uất nằm sâu bên trong thâm nhập nhận thức tỉnh táo. Do đó, trạng thái hưng cảm không phải là một đối cực của trạng thái trầm cảm mà gần tương tự như nhau trong mối tương quan về rối loạn chức năng nhận thức. Trầm cảm xảy ra khi người ta không thể xử lý những căng thẳng và mối đe dọa đến lòng tự tôn và sự tuyệt vọng xảy ra sau đó kèm với một cơ chế bảo vệ nhận thức. Ngược lại, hưng cảm là kết quả của sự nỗ lực cùng cực cuối cùng để giành lại quyền kiểm soát khi lòng tự tôn bị đe dọa (Alloy, Abramson, Urosevic, & al, 2005).

Can thiệp và điều trị

Thuốc

Thuốc cân bằng cảm xúc, giúp giảm thiểu sự  thay đổi tâm trạng, thường được kê toa cho người được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lưỡng cực và nó có thể làm giảm cả hai giai đoạn hưng và trầm cảm. Thuốc cân bằng cảm xúc lâu đời nhất là lithium (lithium carbonate). Lithium tương tác với chất dẫn truyền thần kinh như serotonin, noradrenaline, glutamate và GABA, giúp cân bằng tính khí. Tuy nhiên, liều lithium quá cao có thể dẫn đến những tác dụng phụ nghiêm trọng, chẳng hạn như nôn mửa, yếu cơ, mờ mắt, hoặc ù tai (Arana & Rosenbaum, 2000). Vì vậy, bệnh nhân phải thường xuyên kiểm tra nồng độ lithium có trong máu của họ để đảm bảo họ được dùng liều lượng thích hợp.

Thật không may, nhiều bệnh nhân lưỡng cực không phản ứng với lithium. Hầu hết các bệnh nhân không phản ứng có các triệu chứng hỗn hợp của hưng cảm và trầm cảm hoặc lạm dụng chất cồn. Một hạn chế của việc sử dụng lithium trong điều trị rối loạn lưỡng cực nữa là những tác dụng phụ của nó, bao gồm buồn nôn, các vấn đề về trí nhớ và suy giảm phối hợp. Nhiều bệnh nhân bỏ thuốc hoặc thất bại trong việc uống thuốc thường xuyên do các tác dụng phụ này (Oltmanns & Emery, 2014).

Thuốc chống co giật được kê cho bệnh nhân lưỡng cực nào không phản ứng với lithium. Phổ biến nhất là carbamazepine (tên thương hiệu là Tegretol) và axit valporic (Depakene). Cả hai đều có hiệu quả chống lại hưng cảm cấp và giảm tần số cũng như sự nghiêm trọng của mức độ tái phát (Oltmanns & Emery, 2014). Axit Valporic là dòng điều trị thuốc hàng đầu cho hỗn hợp hưng cảm. Tuy nhiên, chúng cũng có thể có tác dụng phụ gây hại bao gồm buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy cần được theo dõi cẩn thận (Leo & Narendran, 1999).

Như đã đề cập ở trên, thuốc chống trầm cảm không phải là phương pháp hiệu quả trong việc điều trị rối loạn lưỡng cực. Tuy nhiên, đôi khi nó có thể được sử dụng cùng với những thuốc cân bằng cảm xúc. Các bác sĩ lâm sàng phải cẩn thận khi sử dụng thuốc chống trầm cảm vì nó có thể gây ra sự chuyển đổi từ trầm cảm thành hưng phấn ở mức nhẹ hoặc giai đoạn hưng cảm. Khi sử dụng riêng biệt, thuốc chống trầm cảm có thể gây ra những ý nghĩ tự tử (NIMH, Mental Health Medications, 2016).

Trị liệu nhận thức hành vi (CBT)

CBT nhắm vào những lối suy nghĩ và hành vi có thể dẫn đến sự tái phát. Ví dụ, CBT thường tập trung vào việc giúp đỡ bệnh nhân lưỡng cực theo lịch thuốc của mình, nhận ra các dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn khí sắc để tìm kiếm sự giúp đỡ thích hợp, và điều chỉnh giấc ngủ (thiếu ngủ có thể dẫn đến sự khởi đầu giai đoạn khí sắc).

Trị liệu điều hòa nhịp độ trong các mối quan hệ liên cá nhân và xã hội (IRSPT)

IRSPT tập trung vào việc xác định và giảm thiểu những nguồn căng thẳng từ xã hội, chẳng hạn như các cuộc xung đột trong những mối quan hệ hoặc hiệu suất làm việc giảm do ảnh hưởng của những giai đoạn khí sắc gây ra. Hình thức điều trị này cũng nhấn mạnh sự điều độ trong cuộc sống hàng ngày, một điều đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân lưỡng cực; bằng cách lập lịch những sự kiện trong ngày để giúp bệnh nhân đi ngủ và ăn ở cùng một thời điểm mỗi ngày (Frank, Mallinger, Thase, Weaver, & Kupfer, 1990).

Bỏ điều trị

Nhiều người bị rối loạn lưỡng cực gặp khó khăn trong việc tuân thủ những chế độ dùng thuốc do tâm trạng thay đổi thường xuyên của họ. Một số người ngưng dùng chất cân bằng cảm xúc bởi vì ngay cả khi họ đã ổn định tâm trạng của mình, những người này nhớ sự phấn khích và tinh thần lên cao đi kèm với những giai đoạn hưng cảm và sợ sự nhàm chán của cảm xúc trong khi dùng thuốc (Arana & Rosenbaum, 2000). Tuy nhiên, bỏ điều trị không theo lời khuyên có thể dẫn đến những đợt tái phát và thậm chí còn làm  các triệu chứng tệ đi. Những bệnh nhân ngừng thuốc và trị liệu báo cáo những trải nghiệm về các giai đoạn khí sắc xuất hiện với tần suất cao hơn và bị suy giảm các chức năng bình thường. Do đó, nếu một người được chẩn đoán bị rối loạn lưỡng cực không thích sự giảm xuống của cảm xúc đi kèm với thuốc cân bằng tâm trạng, thay vì quyết định khi nào ngừng điều trị một cách cá nhân, tốt nhất là nên tham khảo ý kiến bác sĩ tâm thần của họ để bắt đầu thực hiện những kỳ nghỉ thuốc (những quãng thời gian quy định khi nào họ không phải uống thuốc) hoặc để giữ liều lượng thuốc ở một mức độ mà không san bằng tâm trạng của họ hoàn toàn.

[1] Dựa theo và chỉnh sửa từ quyển Tâm lý học dị thường phiên bản thứ 8 (Abnormal Psychology, 8th edition) của T.F. Oltmanns and R.E. Emery. Tên của nhân vật đã được thay đổi.

Tài liệu tham khảo

Alloy, L. B., Abramson, L., Urosevic, S., & al, e. (2005). The psychosocial context of bipolar disorder: Environmental, cognitive, and developmental risk factors. Clinical Psychology Review, 1043-1075.

APA. (2013). Bipolar and Related Disorders. In A. P. Association, DSM-5 (pp. 121-141). American Psychiatric Publishing.

Arana, G. W., & Rosenbaum, J. F. (2000). Handbook of Psychiatric Drug Therapy. Philadelphia: Lippincott Williams & Wilkins.

Benes, F. M., & Berretta, S. (2001). GABAergic Interneurons: Implications for Understanding Schizophrenia and Bipolar Disorder. Neuropsychopharmacology, 1-27.

CDC. (2011). Web-based Injury Statistics Query and Reporting System (WISQARS). Retrieved 5 7, 2016, from National Center for Injury Prevention and Control: http://www.cdc.gov/injury/wisqars/index.html.

Frank, E. S., Mallinger, A. G., Thase, M. E., Weaver, E. V., & Kupfer, D. (1990). Adjunctive psychotherapy for bipolar disorder: effects of changing. Journal of Abnormal Psychology, 579-587.

Leo, R. J., & Narendran, R. (1999). Anticonvulsant Use in the Treatment of Bipolar Disorder: A Primer for Primary Care Physicians. Primary Care Companion to The Journal of Clinical Psychiatry, 74-84.

M.M, W., Bland, R., & al, e. (1999). Prevalence of suicide ideation and suicide attempts in nine countries. Psycholological Medicine, 29(1), 9-17.

Miklowitz, D. J., & Johnson, S. L. (2009). Social and Familial Factors in the Course of Bipolar Disorder: Basic Processes and Relevant Interventions. Clinical Psychology: A Publication of the Division of Clinical Psychology of the American Psychological Association, 16(2), 281-296.

NIMH. (2016, 04). Bipolar Disorder. Retrieved 5 11, 2016, from National Institute of Mental Health: https://www.nimh.nih.gov/health/topics/bipolar-disorder/index.shtml

NIMH. (2016, 1). Mental Health Medications. Retrieved 5 12, 2016, from National Institute of Mental Health: http://www.nimh.nih.gov/health/topics/mental-health-medications/index.shtml

Oltmanns, T. F., & Emery, R. E. (2014). Mood disorder and suicide. In T. F. Oltmanns, & R. E. Emery, Abnormal Psychology (pp. 106-140). Pearson.

Packman, W. L., Marlitt, R. E., & al, e. (2004). A comprehensive and concise assessment of suicide risk. Behavioral Sciences and the Law,, 22, 667-680.

Rihmer, Z. (2007). Suicide risk in mood disorders. Current Opinion in Psychiatry, 20(1), 17-22.

Sajatovic, M. (2005). Bipolar Disorder: Disease Burden. The American Journal of Managed Cared, S80-S84.

Salvadore, G., Quiroz, J. A., Machado-Vieira, R., & al, e. (2010). The Neurobiology of the Switch Process in Bipolar Disorder: a Review. Journal of Clinical Psychiatry , 1488-1501.

Strakowski, S. M., DelBello, M. P., Sax, K. W., & al, e. (1999). Brain Magnetic Resonance Imaging of Structural Abnormalities in Bipolar Disorder. General Psychiatry, 254-260.

WebMD. (2014, 9 11). Bipolar Disorder Health Center. Retrieved 5 11, 2016, from Web MD: http://www.webmd.com/bipolar-disorder/guide/bipolar-disorder-causes?page=3

WebMD. (2014, 9 11). Bipolar Disorder Health Center. Retrieved 5 11, 2016, from Web MD: http://www.webmd.com/bipolar-disorder/guide/bipolar-disorder-causes?page=3

WHO. (n.d.). Suicide Data. Retrieved 5 8, 2016, from World Health Organization: http://www.who.int/mental_health/prevention/suicide/suicideprevent/en/

rối loạn lưỡng cực

Có phải là rối loạn lưỡng cực? Ở đây, làm thế nào để nhận ra các dấu hiệu và triệu chứng và nhận được sự giúp đỡ cho chứng hưng cảm, hypomania và trầm cảm lưỡng cực.

5 dấu hiệu hàng đầu của rối loạn lưỡng cực năm 2022

Rối loạn lưỡng cực là gì?

Tất cả chúng ta đều có những thăng trầm, nhưng với rối loạn lưỡng cực (từng được gọi là trầm cảm hưng cảm hoặc rối loạn trầm cảm), các đỉnh và thung lũng này nghiêm trọng hơn. Rối loạn lưỡng cực gây ra sự thay đổi nghiêm trọng trong tâm trạng, năng lượng, suy nghĩ và hành vi, từ mức cao của hưng cảm trên một thái cực, đến mức thấp của trầm cảm ở bên kia. Không chỉ là một tâm trạng tốt hay xấu, chu kỳ rối loạn lưỡng cực kéo dài trong nhiều ngày, tuần hoặc vài tháng. Và không giống như sự thay đổi tâm trạng thông thường, sự thay đổi tâm trạng của rối loạn lưỡng cực rất mãnh liệt đến mức chúng có thể can thiệp vào công việc hoặc hiệu suất của bạn, làm hỏng các mối quan hệ của bạn và phá vỡ khả năng hoạt động của bạn trong cuộc sống hàng ngày.

Trong một tập phim hưng cảm, bạn có thể từ bỏ công việc của mình, tính tiền lớn vào thẻ tín dụng hoặc cảm thấy nghỉ ngơi sau khi ngủ hai giờ. Trong một giai đoạn trầm cảm, bạn có thể quá mệt mỏi để ra khỏi giường, và đầy sự ghê tởm và vô vọng về việc thất nghiệp và mắc nợ.

Các nguyên nhân của rối loạn lưỡng cực aren hoàn toàn hiểu, nhưng nó thường có vẻ là di truyền. Giai đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm đầu tiên của rối loạn lưỡng cực thường xảy ra ở những năm thiếu niên hoặc tuổi trưởng thành sớm. Các triệu chứng có thể tinh tế và khó hiểu; Nhiều người mắc chứng rối loạn lưỡng cực bị bỏ qua hoặc chẩn đoán sai về việc gây ra sự đau khổ không cần thiết. Vì rối loạn lưỡng cực có xu hướng xấu đi mà không cần điều trị, điều quan trọng là phải tìm hiểu các triệu chứng trông như thế nào. Nhận ra vấn đề là bước đầu tiên để cảm thấy tốt hơn và đưa cuộc sống của bạn trở lại đúng hướng.

Thần thoại và sự thật về rối loạn lưỡng cực
Chuyện hoang đường: Những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực không thể tốt hơn hoặc sống một cuộc sống bình thường.

Sự thật: Nhiều người mắc chứng rối loạn lưỡng cực có sự nghiệp thành công, cuộc sống gia đình hạnh phúc và các mối quan hệ thỏa mãn. Sống với rối loạn lưỡng cực là một thách thức, nhưng với điều trị, kỹ năng đối phó lành mạnh và hệ thống hỗ trợ vững chắc, bạn có thể sống đầy đủ trong khi quản lý các triệu chứng của mình. Many people with bipolar disorder have successful careers, happy family lives, and satisfying relationships. Living with bipolar disorder is challenging, but with treatment, healthy coping skills, and a solid support system, you can live fully while managing your symptoms.

Chuyện hoang đường: Những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực xoay qua lại giữa hưng cảm và trầm cảm.

Sự thật: Một số người xen kẽ giữa các giai đoạn cực đoan của hưng cảm và trầm cảm, nhưng hầu hết đều bị trầm cảm thường xuyên hơn họ là hưng cảm. Mania cũng có thể nhẹ đến mức nó không được công nhận. Những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực cũng có thể đi kéo dài mà không có triệu chứng. Some people alternate between extreme episodes of mania and depression, but most are depressed more often than they are manic. Mania may also be so mild that it goes unrecognized. People with bipolar disorder can also go for long stretches without symptoms.

Chuyện hoang đường: Rối loạn lưỡng cực chỉ ảnh hưởng đến tâm trạng.

Sự thật: Rối loạn lưỡng cực cũng ảnh hưởng đến mức năng lượng, phán đoán, trí nhớ, sự tập trung, sự thèm ăn, mô hình giấc ngủ, ham muốn tình dục và lòng tự trọng của bạn. Ngoài ra, rối loạn lưỡng cực có liên quan đến lo lắng, lạm dụng chất gây nghiện và các vấn đề sức khỏe như bệnh tiểu đường, bệnh tim, đau nửa đầu và huyết áp cao. Bipolar disorder also affects your energy level, judgment, memory, concentration, appetite, sleep patterns, sex drive, and self-esteem. Additionally, bipolar disorder has been linked to anxiety, substance abuse, and health problems such as diabetes, heart disease, migraines, and high blood pressure.

Chuyện hoang đường: Ngoài việc dùng thuốc, bạn không thể làm gì để kiểm soát rối loạn lưỡng cực.

SỰ THẬT: Mặc dù thuốc là nền tảng của điều trị rối loạn lưỡng cực, liệu pháp và chiến lược tự giúp đỡ cũng đóng vai trò quan trọng. Bạn có thể giúp kiểm soát các triệu chứng của mình bằng cách tập thể dục thường xuyên, ngủ đủ giấc, ăn uống đúng đắn, theo dõi tâm trạng của bạn, giữ căng thẳng ở mức tối thiểu và xung quanh bạn với những người hỗ trợ. While medication is the foundation of bipolar disorder treatment, therapy and self-help strategies also play important roles. You can help control your symptoms by exercising regularly, getting enough sleep, eating right, monitoring your moods, keeping stress to a minimum, and surrounding yourself with supportive people.

Dấu hiệu và triệu chứng của rối loạn lưỡng cực

5 dấu hiệu hàng đầu của rối loạn lưỡng cực năm 2022

Rối loạn lưỡng cực có thể trông rất khác nhau ở những người khác nhau. Các triệu chứng rất khác nhau về mô hình, mức độ nghiêm trọng và tần suất của chúng. Một số người dễ bị hưng cảm hoặc trầm cảm hơn, trong khi những người khác xen kẽ giữa hai loại tập. Một số có sự gián đoạn tâm trạng thường xuyên, trong khi những người khác chỉ trải qua một vài cuộc đời.

Có bốn loại tâm trạng trong rối loạn lưỡng cực: hưng cảm, hypomania, trầm cảm và các đợt hỗn hợp. Mỗi loại tâm trạng rối loạn lưỡng cực có một tập hợp các triệu chứng duy nhất.

Triệu chứng hưng cảm

Trong giai đoạn hưng cảm của rối loạn lưỡng cực, thông thường trải nghiệm cảm giác tăng cường năng lượng, sáng tạo và hưng phấn. Nếu bạn đang trải qua một tập phim hưng cảm, bạn có thể nói một dặm một phút, ngủ rất ít và hiếu động. Bạn cũng có thể cảm thấy như bạn toàn năng, bất khả chiến bại hoặc định mệnh cho sự vĩ đại.

Nhưng trong khi Mania cảm thấy tốt lúc đầu, nó có xu hướng vượt khỏi tầm kiểm soát. Bạn có thể cư xử liều lĩnh trong một tập phim hưng cảm: đánh bạc loại bỏ tiền tiết kiệm của bạn, tham gia vào hoạt động tình dục không phù hợp hoặc thực hiện các khoản đầu tư kinh doanh ngu ngốc, chẳng hạn. Bạn cũng có thể trở nên tức giận, cáu kỉnh và hung hăng, nhảy chiến đấu, đả kích khi những người khác không đi cùng với kế hoạch của bạn và đổ lỗi cho bất cứ ai chỉ trích hành vi của bạn. Một số người thậm chí trở nên ảo tưởng hoặc bắt đầu nghe thấy tiếng nói.

Các dấu hiệu và triệu chứng phổ biến của hưng cảm bao gồm:

  • Cảm thấy bất thường của người Hồi giáo cao và lạc quan hoặc cực kỳ cáu kỉnh.OR extremely irritable.
  • Niềm tin không thực tế, hoành tráng về khả năng hoặc sức mạnh của một người.
  • Ngủ rất ít, nhưng cảm thấy vô cùng tràn đầy năng lượng.
  • Nói chuyện nhanh đến mức những người khác không thể theo kịp.
  • Ý nghĩ hoang tưởng; Nhảy nhanh từ ý tưởng này sang ý tưởng khác.
  • Rất đánh lạc hướng, không thể tập trung.
  • Suy giảm phán đoán và bốc đồng.
  • Hành động liều lĩnh mà không nghĩ về hậu quả.
  • Ảo tưởng và ảo giác (trong trường hợp nghiêm trọng).

Triệu chứng hypomania

Hypomania là một hình thức hưng cảm ít nghiêm trọng hơn. Trong trạng thái hypomanic, bạn có thể sẽ cảm thấy hưng phấn, tràn đầy năng lượng và hiệu quả, nhưng vẫn có thể tiếp tục với cuộc sống hàng ngày của bạn mà không mất liên lạc với thực tế. Đối với những người khác, có vẻ như bạn chỉ có tâm trạng tốt bất thường. Tuy nhiên, hypomania có thể dẫn đến các quyết định tồi tệ gây hại cho mối quan hệ, sự nghiệp và danh tiếng của bạn. Ngoài ra, hypomania thường leo thang đến hưng cảm toàn diện hoặc được theo sau bởi một giai đoạn trầm cảm lớn.

Triệu chứng trầm cảm lưỡng cực

Trước đây, trầm cảm lưỡng cực đã bị gộp lại với trầm cảm thường xuyên, nhưng một nghiên cứu ngày càng tăng cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa hai người, đặc biệt là khi nói đến các phương pháp điều trị được khuyến nghị.

Hầu hết những người bị trầm cảm lưỡng cực không được giúp đỡ bởi thuốc chống trầm cảm. Trên thực tế, có nguy cơ thuốc chống trầm cảm có thể làm cho rối loạn lưỡng cực trở nên tồi tệ hơn khi gây ra hưng cảm hoặc hypomania, gây ra sự đạp xe nhanh chóng giữa các trạng thái tâm trạng hoặc can thiệp vào các loại thuốc ổn định tâm trạng khác.

Mặc dù có nhiều điểm tương đồng, một số triệu chứng nhất định là phổ biến hơn trong trầm cảm lưỡng cực so với trầm cảm thường xuyên. Ví dụ, trầm cảm lưỡng cực có nhiều khả năng liên quan đến sự khó chịu, cảm giác tội lỗi, sự thay đổi tâm trạng không thể đoán trước và cảm giác bồn chồn. Với trầm cảm lưỡng cực, bạn có thể di chuyển và nói chậm, ngủ nhiều và tăng cân. Ngoài ra, bạn có nhiều khả năng phát triển trầm cảm tâm thần, một tình trạng mà bạn mất liên lạc với thực tế và trải nghiệm các vấn đề lớn trong công việc và hoạt động xã hội.

Các triệu chứng phổ biến của trầm cảm lưỡng cực bao gồm:

  • Cảm thấy vô vọng, buồn hoặc trống
  • Cáu gắt
  • Không có khả năng trải nghiệm niềm vui
  • Mệt mỏi hoặc mất năng lượng
  • Sự chậm chạp về thể chất và tinh thần

  • Sự thèm ăn hoặc thay đổi cân nặng
  • Các vấn đề về giấc ngủ
  • Các vấn đề tập trung và bộ nhớ
  • Cảm giác vô dụng hay cảm giác tội lỗi
  • Suy nghĩ về cái chết hoặc tự tử

Triệu chứng của một tập phim hỗn hợp

Một giai đoạn hỗn hợp của rối loạn lưỡng cực có các triệu chứng của cả hưng cảm hoặc hypomania và trầm cảm. Các dấu hiệu phổ biến của một giai đoạn hỗn hợp bao gồm trầm cảm kết hợp với kích động, khó chịu, lo lắng, mất ngủ, mất tập trung và suy nghĩ đua xe. Sự kết hợp giữa năng lượng cao và tâm trạng thấp này làm cho nguy cơ tự tử đặc biệt cao.

Đi xe đạp nhanh là gì?

Một số người mắc chứng rối loạn lưỡng cực phát triển chu kỳ nhanh chóng, nơi họ trải nghiệm bốn hoặc nhiều giai đoạn hưng cảm hoặc trầm cảm trong khoảng thời gian 12 tháng. Tâm trạng thay đổi có thể xảy ra rất nhanh, giống như một tàu lượn siêu tốc ngẫu nhiên di chuyển từ cao sang thấp và trở lại trong một khoảng thời gian hoặc thậm chí vài giờ. Đi xe đạp nhanh có thể khiến bạn cảm thấy nguy hiểm ngoài tầm kiểm soát và thường xảy ra nếu các triệu chứng rối loạn lưỡng cực của bạn không được điều trị đầy đủ.

Các khuôn mặt khác nhau của rối loạn lưỡng cực

Rối loạn lưỡng cực I (hưng cảm hoặc một tập hỗn hợp)-Đây là hình thức trầm cảm cổ điển của bệnh tật, được đặc trưng bởi ít nhất một tập phim hưng cảm hoặc tập hỗn hợp. Thông thường, nhưng không phải lúc nào cũng là rối loạn của Bipolar I cũng liên quan đến ít nhất một lần trầm cảm. – This is the classic manic-depressive form of the illness, characterized by at least one manic episode or mixed episode. Usually—but not always—Bipolar I Disorder also involves at least one episode of depression.

Rối loạn lưỡng cực II (hypomania và trầm cảm)-Trong rối loạn lưỡng cực II, bạn không gặp phải các đợt hưng cảm toàn diện. Thay vào đó, bệnh liên quan đến các đợt hypomania và trầm cảm nặng. – In Bipolar II disorder, you don't experience full-blown manic episodes. Instead, the illness involves episodes of hypomania and severe depression.

Cyclothymia (hypomania và trầm cảm nhẹ) - Cyclothymia là một dạng rối loạn lưỡng cực nhẹ hơn bao gồm cả sự thay đổi tâm trạng theo chu kỳ. Tuy nhiên, các triệu chứng ít nghiêm trọng hơn so với hưng cảm hoặc trầm cảm toàn diện. – Cyclothymia is a milder form of bipolar disorder that consists of cyclical mood swings. However, the symptoms are less severe than full-blown mania or depression.

Điều trị rối loạn lưỡng cực

Nếu bạn phát hiện ra các triệu chứng của rối loạn lưỡng cực trong chính bạn hoặc người khác, đừng chờ đợi để được giúp đỡ. Bỏ qua vấn đề sẽ không làm cho nó biến mất; Trong thực tế, nó gần như chắc chắn sẽ trở nên tồi tệ hơn. Sống với rối loạn lưỡng cực không được điều trị có thể dẫn đến các vấn đề trong mọi thứ, từ sự nghiệp của bạn đến các mối quan hệ của bạn đến sức khỏe của bạn. Nhưng rối loạn lưỡng cực có thể điều trị cao, vì vậy chẩn đoán vấn đề và bắt đầu điều trị càng sớm càng tốt có thể giúp ngăn ngừa các biến chứng này.

Nếu bạn miễn cưỡng tìm cách điều trị vì bạn thích cách bạn cảm nhận khi bạn hưng cảm, hãy nhớ rằng năng lượng và hưng phấn đi kèm với giá cả. Mania và hypomania thường biến thành sự phá hoại, làm tổn thương bạn và những người xung quanh bạn.

Điều trị cơ bản

Rối loạn lưỡng cực đòi hỏi điều trị lâu dài. Vì rối loạn lưỡng cực là một bệnh mãn tính, tái phát, điều quan trọng là tiếp tục điều trị ngay cả khi bạn cảm thấy tốt hơn. Hầu hết những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực cần dùng thuốc để ngăn ngừa các đợt mới và không có triệu chứng. Since bipolar disorder is a chronic, relapsing illness, it's important to continue treatment even when you're feeling better. Most people with bipolar disorder need medication to prevent new episodes and stay symptom-free.

Có nhiều điều trị hơn thuốc. Chỉ riêng thuốc thường không đủ để kiểm soát hoàn toàn các triệu chứng của rối loạn lưỡng cực. Chiến lược điều trị hiệu quả nhất đối với rối loạn lưỡng cực liên quan đến sự kết hợp của thuốc, trị liệu, thay đổi lối sống và hỗ trợ xã hội. Medication alone is usually not enough to fully control the symptoms of bipolar disorder. The most effective treatment strategy for bipolar disorder involves a combination of medication, therapy, lifestyle changes, and social support.

5 dấu hiệu hàng đầu của rối loạn lưỡng cực năm 2022

Với hơn 25.000 cố vấn được cấp phép, Betterhelp có một nhà trị liệu phù hợp với nhu cầu của bạn. Đăng ký ngay hôm nay và được kết hợp.

5 dấu hiệu hàng đầu của rối loạn lưỡng cực năm 2022

Liệu pháp trực tuyến tư nhân giá cả phải chăng. Nhận trợ giúp ngay lập tức, trên bất kỳ thiết bị nào, bất cứ nơi nào bạn ở trên thế giới. Bắt đầu cảm thấy tốt hơn ngay hôm nay!

5 dấu hiệu hàng đầu của rối loạn lưỡng cực năm 2022

Nhận tư vấn trực tuyến chuyên nghiệp cho mối quan hệ hoặc các vấn đề hôn nhân. Nó bí mật và thuận tiện để bắt đầu.

Tự giúp đỡ cho rối loạn lưỡng cực

Mặc dù đối phó với rối loạn lưỡng cực không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng nó không phải chạy cuộc sống của bạn. Nhưng để quản lý thành công rối loạn lưỡng cực, bạn phải đưa ra lựa chọn thông minh. Lối sống và thói quen hàng ngày của bạn có thể có tác động đáng kể đến tâm trạng của bạn và thậm chí có thể làm giảm nhu cầu về thuốc của bạn ..

Các chìa khóa cho tự giúp đỡ rối loạn lưỡng cực

Được giáo dục. Tìm hiểu càng nhiều càng tốt về rối loạn lưỡng cực. Bạn càng biết nhiều, bạn sẽ càng hỗ trợ sự phục hồi của chính bạn. Learn as much as you can about bipolar disorder. The more you know, the better you'll be at assisting your own recovery.

Di chuyển. Tập thể dục có tác động có lợi đến tâm trạng & nbsp; và có thể làm giảm số lượng các giai đoạn lưỡng cực bạn trải nghiệm. Tập thể dục nhịp điệu kích hoạt chuyển động cánh tay và chân như chạy, đi bộ, bơi lội, nhảy múa, leo núi hoặc đánh trống có thể đặc biệt có lợi cho não và hệ thần kinh của bạn.Exercise has a beneficial impact on mood and may reduce the number of bipolar episodes you experience. Aerobic exercise that activates arm and leg movement such as running, walking, swimming, dancing, climbing or drumming may be especially beneficial to your brain and nervous system.

Giữ căng thẳng khi kiểm tra. Tránh các tình huống căng thẳng cao, duy trì cân bằng cuộc sống công việc lành mạnh và thử các kỹ thuật thư giãn như thiền, yoga hoặc thở sâu. Avoid high-stress situations, maintain a healthy work-life balance, and try relaxation techniques such as meditation, yoga, or deep breathing.

Tìm kiếm sự hỗ trợ. Điều quan trọng là có những người bạn có thể hướng đến để được giúp đỡ và khuyến khích. Hãy thử tham gia một nhóm hỗ trợ hoặc nói chuyện với một người bạn đáng tin cậy. Tiếp cận không phải là dấu hiệu của sự yếu đuối và nó sẽ không có nghĩa là bạn là gánh nặng cho người khác. Trên thực tế, hầu hết bạn bè sẽ được tâng bốc rằng bạn tin tưởng họ đủ để tâm sự với họ, và điều đó sẽ chỉ củng cố mối quan hệ của bạn. It's important to have people you can turn to for help and encouragement. Try joining a support group or talking to a trusted friend. Reaching out is not a sign of weakness and it won't mean you're a burden to others. In fact, most friends will be flattered that you trust them enough to confide in them, and it will only strengthen your relationship.

Giữ kết nối chặt chẽ với bạn bè và gia đình. Không có gì làm dịu hệ thống thần kinh như tiếp xúc trực tiếp với những người hỗ trợ chăm sóc, những người chỉ có thể lắng nghe bạn nói về những gì bạn đang trải qua.Nothing is as calming to the nervous system as face-to-face contact with caring supportive people who can just listen to you talk about what you're experiencing.

Đưa ra lựa chọn lành mạnh. Thói quen ngủ và ăn uống lành mạnh có thể giúp ổn định tâm trạng của bạn. Giữ một lịch trình ngủ thường xuyên là đặc biệt quan trọng. Healthy sleeping and eating habits can help stabilize your moods. Keeping a regular sleep schedule is particularly important.

Giám sát tâm trạng của bạn. Theo dõi các triệu chứng của bạn và theo dõi các dấu hiệu cho thấy tâm trạng của bạn đang vượt khỏi tầm kiểm soát để bạn có thể ngăn chặn vấn đề trước khi nó bắt đầu. Keep track of your symptoms and watch for signs that your moods are swinging out of control so you can stop the problem before it starts.

Giảm căng thẳng, tăng cường sức khỏe và đạt được sự cân bằng trong cuộc sống của bạn

Tìm hiểu làm thế nào giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm (MBSR) có thể giúp bạn trải nghiệm ít lo lắng hơn, ít căng thẳng hơn, và ít đau đớn về thể chất và cảm xúc và bệnh tật với chương trình trực tuyến này từ âm thanh đúng.

HÃY ĐĂNG KÝ NGAY HÔM NAY

5 dấu hiệu hàng đầu của rối loạn lưỡng cực năm 2022

Rối loạn lưỡng cực và tự tử

Giai đoạn trầm cảm của rối loạn lưỡng cực thường rất nghiêm trọng và tự tử là một yếu tố nguy cơ chính. Trên thực tế, những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực có nhiều khả năng cố gắng tự tử hơn những người bị trầm cảm thường xuyên. Hơn nữa, những nỗ lực tự tử của họ có xu hướng gây chết người hơn.

Nguy cơ tự tử thậm chí còn cao hơn ở những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực, những người thường xuyên bị trầm cảm, các đợt hỗn hợp, tiền sử lạm dụng rượu hoặc ma túy, tiền sử gia đình tự tử hoặc khởi phát sớm bệnh.

Dấu hiệu cảnh báo tự sát bao gồm:

  • Nói về cái chết, tự làm hại hoặc tự tử.
  • Cảm thấy vô vọng hoặc bất lực.
  • Cảm thấy vô giá trị hoặc giống như một gánh nặng cho người khác.

  • Hành động liều lĩnh, như thể một người có một điều ước tử thần của người Hồi giáo.
  • Đặt công việc theo thứ tự hoặc nói lời tạm biệt.
  • Tìm kiếm vũ khí hoặc thuốc có thể được sử dụng để tự tử.

Coi trọng những suy nghĩ hoặc nói chuyện một cách nghiêm túc về tự tử

Nếu bạn hoặc ai đó mà bạn quan tâm là tự tử, hãy gọi cuộc sống tự sát và khủng hoảng 988 ở Hoa Kỳ tại 988 hoặc ghé thăm IASP hoặc tự sát.org để tìm đường dây trợ giúp ở nước bạn. Bạn cũng có thể đọc phòng chống tự tử.

Nguyên nhân và kích hoạt

Rối loạn lưỡng cực không có nguyên nhân duy nhất. Dường như một số người có xu hướng di truyền đối với rối loạn lưỡng cực, nhưng không phải ai cũng có lỗ hổng di truyền phát triển bệnh, cho thấy các gen không phải là nguyên nhân duy nhất. Một số nghiên cứu hình ảnh não cho thấy những thay đổi vật lý trong não của những người mắc chứng rối loạn lưỡng cực. Các nghiên cứu khác chỉ ra sự mất cân bằng chất dẫn truyền thần kinh, chức năng tuyến giáp bất thường, rối loạn nhịp sinh học và mức độ cao của hormone cortisol căng thẳng.

Các yếu tố môi trường và tâm lý bên ngoài cũng được cho là có liên quan đến sự phát triển của rối loạn lưỡng cực. Những yếu tố bên ngoài được gọi là kích hoạt. Trình kích hoạt có thể đặt ra các giai đoạn mới của hưng cảm hoặc trầm cảm hoặc làm cho các triệu chứng hiện có tồi tệ hơn. Tuy nhiên, nhiều đợt rối loạn lưỡng cực xảy ra mà không có kích hoạt rõ ràng.

Căng thẳng. Các sự kiện căng thẳng trong cuộc sống có thể kích hoạt rối loạn lưỡng cực ở người có lỗ hổng di truyền. Những sự kiện này có xu hướng liên quan đến những thay đổi mạnh mẽ hoặc đột ngột, dù tốt hay xấu như kết hôn, đi học đại học, mất một người thân yêu, bị sa thải hoặc di chuyển.Stressful life events can trigger bipolar disorder in someone with a genetic vulnerability. These events tend to involve drastic or sudden changes—either good or bad—such as getting married, going away to college, losing a loved one, getting fired, or moving.

Lạm dụng chất. Mặc dù lạm dụng chất không gây ra rối loạn lưỡng cực, nhưng nó có thể mang lại một đợt hoặc làm xấu đi quá trình của bệnh. Các loại thuốc như cocaine, thuốc lắc và amphetamines có thể gây ra hưng cảm, trong khi rượu và thuốc an thần có thể gây ra trầm cảm.While substance abuse doesn't cause bipolar disorder, it can bring on an episode or worsen the course of the disease. Drugs such as cocaine, ecstasy, and amphetamines can trigger mania, while alcohol and tranquilizers can trigger depression.

Thuốc. Một số loại thuốc, đáng chú ý nhất là thuốc chống trầm cảm, có thể kích hoạt hưng cảm. Các loại thuốc khác có thể gây ra hưng cảm bao gồm thuốc lạnh không kê đơn, thuốc ức chế sự thèm ăn, caffeine, corticosteroid và thuốc tuyến giáp.Certain medications, most notably antidepressant drugs, can trigger mania. Other drugs that can cause mania include over-the-counter cold medicine, appetite suppressants, caffeine, corticosteroids, and thyroid medication.

Thay đổi theo mùa. Các tập của hưng cảm và trầm cảm thường theo một mô hình theo mùa. Các tập phim hưng cảm phổ biến hơn trong mùa hè, và các tập trầm cảm phổ biến hơn trong mùa thu, mùa đông và mùa xuân.Episodes of mania and depression often follow a seasonal pattern. Manic episodes are more common during the summer, and depressive episodes more common during the fall, winter, and spring.

Thiếu ngủ. Mất ngủ ngay cả khi bỏ qua một vài giờ nghỉ ngơi, có thể kích hoạt một tập của hưng cảm.Loss of sleep—even as little as skipping a few hours of rest—can trigger an episode of mania.

Các tác giả: Melinda Smith, M.A. và Jeanne Segal, Ph.D.

    • Người giới thiệu

      Lưỡng cực và các rối loạn liên quan. (2013) trong Hướng dẫn chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần. Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ. https://doi.org/10.1176/appi.books.9780890425787.x03_bipolar_and_related_disorder

      Rối loạn NIMH »Rối loạn lưỡng cực. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021. https://www.nimh.nih.gov/health/topics/bipolar-disorder

      Butler, Mary, Snezana Urosevic, Priyanka Desai, Scott R. Sponheim, Jonah Popp, Victoria A. Nelson, Viengneesee Thao và Benjamin Sunderlin. Điều trị cho rối loạn lưỡng cực ở người lớn: một tổng quan hệ thống. Cơ quan nghiên cứu và chất lượng chăm sóc sức khỏe (AHRQ), ngày 7 tháng 8 năm 2018. https://doi.org/10.23970/ahrqepccer208

      Tondo, Leonardo, Gustavo H. Vázquez và Ross J. Baldessarini. Trầm cảm và hưng cảm trong rối loạn lưỡng cực. Thần kinh học hiện tại 15, không. 3 (tháng 4 năm 2017): 353 bóng58. https://doi.org/10.2174/1570159x14666160606210811

      Solé, Brisa, Esther Jiménez, Carla Torrent, Maria Reinares, Caterina del Mar Bonnin, Imma Torres, Cristina Varo, et al. Suy giảm nhận thức trong rối loạn lưỡng cực: Chiến lược điều trị và phòng ngừa. Tạp chí Quốc tế về Thần kinh học 20, không. 8 (ngày 1 tháng 8 năm 2017): 670 Từ80. https://doi.org/10.1093/ijnp/pyx032

      Vieta, Eduard, Estela Salagre, Iria Grande, André F. Carvalho, Brisa S. Fernandes, Michael Berk, Boris Birmaher, Mauricio Tohen và Trisha Suppes. Sự can thiệp sớm vào rối loạn lưỡng cực. Tạp chí Tâm thần học Hoa Kỳ 175, không. 5 (ngày 1 tháng 5 năm 2018): 411 Từ26. https://doi.org/10.1176/appi.ajp.2017.17090972

      Bobo, William V. Hồi Chẩn đoán và quản lý các rối loạn lưỡng cực I và II: Cập nhật thực hành lâm sàng. Kỷ yếu Phòng khám Mayo 92, không. 10 (tháng 10 năm 2017): 1532 Từ51. https://doi.org/10.1016/j.mayocp.2017.06.022

      Bonnín, Caterina del Mar, María Reinares, Anabel Martínez-Arán, Esther Jiménez, Jose Sánchez-Moreno, Brisa Solé, Laura Montejo và Eduard Vieta. Cải thiện chức năng, chất lượng cuộc sống và hạnh phúc ở bệnh nhân rối loạn lưỡng cực. Tạp chí Quốc tế về Thần kinh học 22, không. 8 (ngày 1 tháng 8 năm 2019): 467 Từ77. https://doi.org/10.1093/ijnp/pyz018

      Rolin, Donna, Jessica Whelan và Charles B. Montano. "Nó là trầm cảm hay là trầm cảm lưỡng cực?" Tạp chí của Hiệp hội các học viên y tá Hoa Kỳ 32, không. 10 (tháng 10 năm 2020): 703 Từ13. https://doi.org/10.1097/jxx.0000000000000499

      Nghe, CM, WC Chang, KL Szuhany, T Deckersbach, AA Nierenberg và LG Sylvia. Tập thể dục thể chất để điều trị rối loạn tâm trạng: Một đánh giá quan trọng. Báo cáo khoa học thần kinh hành vi hiện tại 3, không. 4 (tháng 12 năm 2016): 350 bóng59. https://doi.org/10.1007/S40473-016-0089-y

      Melo, Matias Carvalho Aguiar, Elizabeth de Francesco Daher, Saulo Giovanni Castor Albuquerque, và Veralice Meirele Sales de Bruin. Tập thể dục ở bệnh nhân lưỡng cực: Một đánh giá có hệ thống. Tạp chí Rối loạn tình cảm 198 (tháng 7 năm 2016): 32 trận38. https://doi.org/10.1016/j.jad.2016.03.004

    Rối loạn lưỡng cực - triệu chứng, nguyên nhân và điều trị. (Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia)

    Đi xe đạp nhanh - các dấu hiệu, triệu chứng và nguyên nhân của việc đạp xe nhanh trong rối loạn lưỡng cực. (Trầm cảm và Liên minh hỗ trợ lưỡng cực)

    Lưỡng cực-sổ làm việc và các tài nguyên tự giúp đỡ khác. (Trung tâm can thiệp lâm sàng)

    Cập nhật lần cuối: ngày 1 tháng 11 năm 2022

    5 dấu hiệu rối loạn lưỡng cực là gì?

    Triệu chứng - Rối loạn lưỡng cực..
    cảm thấy buồn, vô vọng hoặc khó chịu trong hầu hết thời gian ..
    thiếu năng lượng ..
    khó tập trung và ghi nhớ mọi thứ ..
    Mất hứng thú với các hoạt động hàng ngày ..
    cảm giác trống rỗng hoặc vô giá trị ..
    Cảm giác tội lỗi và tuyệt vọng ..
    Cảm thấy bi quan về mọi thứ ..
    self-doubt..

    9 đặc điểm của rối loạn lưỡng cực là gì?

    Chín triệu chứng phổ biến của rối loạn lưỡng cực bao gồm hưng phấn, ít cần phải ngủ, thiếu phán đoán, rối loạn tâm thần (nhìn hoặc nghe những điều không có thật, hoặc tin rằng mọi thứ đang xảy ra không có thật) theo sau là sự khó chịu, cảm giác vô vọng, khó tập trung, tập trung,Huy hiệu hỗn hợp, và sự bốc đồng.

    Làm thế nào bạn có thể biết nếu ai đó là lưỡng cực?

    Dấu hiệu chính của rối loạn lưỡng cực là sự thay đổi tâm trạng cực độ đi từ cao cảm xúc đến mức thấp cảm xúc.Các tập phim hưng cảm khiến mọi người có vẻ rất tràn đầy năng lượng, hưng phấn hoặc cáu kỉnh.Trong các tập phim trầm cảm, người thân của bạn có vẻ buồn bã, buồn bã hoặc mệt mỏi mọi lúc.extreme mood swings that go from emotional highs to emotional lows. Manic episodes cause people to seem very energetic, euphoric, or irritable. During depressive episodes, your loved one may seem sad, upset, or tired all the time.

    Giai đoạn đầu tiên của lưỡng cực là gì?

    Rối loạn lưỡng cực I liên quan đến ít nhất một tập của Mania, đó là một tâm trạng rất cao.Điều này có thể xen kẽ với thời gian trầm cảm.Trong một giai đoạn hưng cảm, bạn có thể cảm thấy có dây điện hoặc nhảy và tràn đầy năng lượng.Trong giai đoạn trầm cảm, bạn có thể cảm thấy mình không có năng lượng và không thể thực hiện các công việc hàng ngày.manic phase, you may feel “wired” or jumpy and full of energy. During a depressive phase, you may feel you have no energy and are unable to carry out daily tasks.