Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh nâng cao bản lĩnh chính trị

[HBĐT] - "Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”[1]. 

Xây dựng giai cấp công nhân nước ta lớn mạnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, của mỗi người công nhân và của toàn xã hội. Sự quan tâm của Đảng đối với giai cấp công nhân đã được khẳng định ngay từ khi thành lập Đảng và được minh chứng ngay trong các văn kiện của Đảng ta qua các kỳ Đại hội nhất là từ sau Đại hội Đổi mới toàn diện đất nước đến nay. 

Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [CNXH] năm 1991 đã khẳng định: "Phát triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng để xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội…Đặc biệt coi trọng việc xây dựng một đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi và các nhà khoa học, kỹ thuật có trình độ cao”[2].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã xác định: "Mục tiêu của CNH, HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”[3]

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta có những bước tiến mới trong nhận thức, lý luận về giai cấp công nhân trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa [CNH, HĐH], phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. "Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khoẻ đối với công nhân; chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú.”[4]

Để giai cấp công nhân Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình, văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục chỉ rõ: "Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.[1] Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa X ngày 28/1/2008, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đấy mạnh CNH, HĐH đất nước cũng đã nhấn mạnh mục tiêu: Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được trí thức hoá: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; có giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động cao.

Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định: "Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”[2].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: "Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện điều kiện làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân”[3].

Kế thừa những quan điểm trên, văn kiện Đại hội XIII của Đảng đưa ra chủ trương: "Phát triển GCCN cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp [CMCN] lần thứ tư; đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp bối cảnh, điều kiện mới”[4]. Như vậy, chủ trương phát triển GCCN và tổ chức Công đoàn trong Dự thảo các văn kiện Đại hội XIII của Đảng vẫn "phát triển GCCN cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp”; nhưng đã bổ sung điểm mới rất quan trọng là phát triển GCCN "nhằm thích ứng với cuộc CMCN lần thứ tư; đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp bối cảnh, điều kiện mới”.

Với tất cả sự quan tâm trên của Đảng ta và cả hệ thống chính trị, giai cấp công nhân đã phát triển mạnh mẽ và tự ý thức được vai trò tiên phong lãnh đạo cách mạng xây dựng CNXH của mình. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 14% dân số, 27% lực lượng lao động xã hội, song hằng năm giai cấp công nhân Việt Nam đã tạo ra trên 65% giá trị tổng sản phẩm xã hội và hơn 70% giá trị thu ngân sách nhà nước. Về trình độ chuyên môn, lực lượng lao động đã qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ chiếm 22,37% [trong đó, lao động có trình độ đại học trở lên chiếm 10,82 %; cao đẳng chiếm 3,82%; trung cấp chiếm 4,65% và sơ cấp chiếm 3,08% [số liệu Tổng cục Thống kê, quý II/ 2019].

Xây dựng GCCN lớn mạnh trong điều kiện nước ta tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, những rào cản về không gian kinh tế, hàng hóa, dịch vụ, vốn, khoa học - công nghệ, thị trường lao động được gỡ bỏ thì sự cạnh tranh giữa các nước càng trở nên gay gắt và tác động của cuộc CMCN lần thứ tư với nhiều thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức; lực lượng lao động dịch chuyển nhiều hơn; số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm, doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước phát triển đa dạng, lao động khu vực phi chính thức tăng. Do vậy, đòi hỏi phải phát huy cao nhất hiệu quả các chủ trương của Đảng, cơ chế, chính sách của Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ dành cho phát triển GCCN thích ứng với cuộc CMCN lần thứ tư.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr118.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2011, tr.240-241.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2016, tr.242-243.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam [2020], Dự thảo các Văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng [tài liệu sử dụng tại đại hội chi bộ, đảng bộ cơ sở], tr 31

ThS. Lê Thu Hường

Trường ĐTCB Lê Hồng Phong TP Hà Nội

        Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn kiên định lập trường giai cấp công nhân; khẳng định địa vị lãnh đạo của giai cấp công nhân trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng ta xác định sứ mệnh lịch sử to lớn của giai cấp công nhân: Là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

        Qua 35 năm đổi mới, 13 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đến Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho giai cấp công nhân. Chăm lo đời sống vật chất tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế, tập trung làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, tập thể công nhân. Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay”[1].

         Dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân Việt Nam đã tăng về số lượng, trưởng thành về chất lượng và khẳng định, phát huy vai trò, địa vị của mình trong thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Theo Tổng cục Thống kê, hiện nay, tổng số lao động làm công hưởng lương trong các loại hình doanh nghiệp ở nước ta có khoảng 24,5 triệu người, trong đó công nhân, lao động trong các doanh nghiệp chiếm khoảng 60%, chiếm tỉ lệ khoảng 14% số dân và 27% lực lượng lao động xã hội. Trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, chính trị của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện. Số công nhân có tri thức, nắm vững khoa học - công nghệ tiên tiến đã tăng lên. Hình thành lớp công nhân trẻ có trình độ học vấn, văn hóa, được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất hiện đại, phương pháp làm việc ngày càng tiên tiến.

        Tuy nhiên, so với những yêu cầu CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế thì GCCN Việt Nam còn một số hạn chế, bất cập:           

         Giai cấp công nhân không những bất cập so với yêu cầu phát triển chung của thời đại mà đang thực sự bất cập với chính yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH. Trình độ học vấn, chuyên môn, nghề nghiệp của công nhân lao động còn thấp so với yêu cầu phát triển đất nước và đang mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các bộ phận công nhân. Rõ nét nhất là tình trạng thiếu nghiêm trọng chuyên gia kỹ thuật, nhà quản lý giỏi, công nhân có trình độ tay nghề cao.          

         Việc làm và đời sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện; nhưng lợi ích của một bộ phận công nhân được hưởng chưa tương xứng với những thành tựu của công cuộc đổi mới và những đóng góp của chính mình; việc làm, đời sống vật chất và tinh thần của công nhân đang có nhiều khó khăn, bức xúc, đặc biệt là ở bộ phận công nhân lao động giản đơn tại các doanh nghiệp của tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, môi trường làm việc độc hại, quyền lợi không được giải quyết một cách thỏa đáng... đã dẫn đến các cuộc đình công.

         Giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị của công nhân không đồng đều; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn nhiều hạn chế. Tỷ lệ đảng viên, đoàn viên công đoàn trong công nhân lao động còn thấp. Công tác phát triển đảng trong công nhân chậm. Ở hầu hết các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân đều không muốn hoặc không quan tâm đến việc xây dựng các tổ chức đảng. Giai cấp công nhân còn hạn chế về phát huy vai trò nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng.

          Để xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh, nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kĩ năng nghề nghiệp trong điều kiện hiện nay cần thực hiện đồng bộ các giải pháp chủ yếu sau:

           Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa

           Quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta hiện nay cũng phải gắn với cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Theo đó, xây dựng giai cấp công nhân trước hết là đổi mới nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa hiện nay theo hướng trí tuệ hóa lao động song ứng dụng công nghệ hiện đại. Do vậy, cần phải tiếp tục phát triển một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Thực hiện nhiệm vụ này vừa giải quyết được việc làm cho lao động, vừa đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, sử dụng lao động ở mọi trình độ, phân bố hợp lý lao động giữa các vùng miền, thành phần, ngành nghề kinh tế.

          Phát huy nội lực và tranh thủ những điều kiện thuận lợi do ngoại lực mang lại để đẩy mạnh ứng dụng và tiếp cận nhanh với sự tiến bộ của khoa học công nghệ thế giới để sản xuất được những sản phẩm cạnh tranh trong điều kiện hội nhập là nhiệm vụ quan trọng hiện nay. Điều này sẽ làm biến đổi cơ cấu sản xuất theo hướng hiện đại, qua đó cũng làm cho giai cấp công nhân có điều kiện phát triển về số lượng và chất lượng, cơ cấu giai cấp công nhân cũng biến đổi theo hướng trí thức hóa công nhân. Bộ phận công nhân lao động trí óc ngày càng tăng, lực lượng lao động chân tay giảm dần trong cơ cấu giai cấp công nhân nước ta.        

          Thứ hai, tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho giai cấp công nhân

        Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho công nhân phải được tiến hành thường xuyên, bám sát thực tiễn. Bên cạnh đó, cần gắn công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động với việc động viên về mặt vật chất, tinh thần đối với công nhân lao động chấp hành tốt nội quy và kỷ luật lao động, có ý chí phấn đấu, rèn luyện nâng cao lập trường tư tưởng, có ý thức giai cấp, tinh thần dân tộc.

          Đặc biệt, trong bối cảnh đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thì việc nâng cao ý thức giác ngộ chính trị cho giai cấp công nhân là vn đề cấp bách. Để thực hiện điều này, trước hết cần thực hiện tốt những nội dung cơ bản: Một là, đổi mới nội dung và hình thức giáo dục chính trị tư tưởng cho giai cấp công nhân trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. Hai là, tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức chính tr- xã hội, xã hội nghề nghiệp của giai cấp công nhân trong doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

         Thứ ba, hoàn thiện và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của giai cấp công nhân trong quá trình hội nhập quốc tế.

        Trong quá trình hội nhập quốc tế, cùng với việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường thì hệ thống chính sách, pháp luật về lao động cũng cần được đổi mới, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Không ít địa phương mới chỉ coi trọng việc thu hút đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế, chính sách cho các nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp, mà chưa thực sự quan tâm thích đáng đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân lao động.

          Để ngăn ngừa và khắc phục tác động tiêu cực của hội nhập quốc tế đến sự biến đổi của giai cấp công nhân nước ta, bên cạnh việc coi trọng phát triển kinh tế cần quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giai cấp công nhân. Trước mắt cần hoàn thiện và thực hiện hiệu quả chính sách việc làm cho công nhân; hoàn thiện chính sách tiền lương phù hợp, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thu nhập cho công nhân - lao dộng; đẩy mạnh việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp, nhất là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; hoàn thiện và phát triển hệ thống an sinh xã hội, mở rộng phúc lợi xã hội cho công nhân; hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; xây dựng, ban hành và thực hiện hiệu quả quy định về xây dựng thiết chế văn hóa - xã hội cho công nhân trong doanh nghiệp.

           Thứ tư, tiếp tục kiện toàn, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong doanh nghiệp

          Cần đổi mới tổ chức công đoàn, để nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn, thực sự đại diện quyền lợi cho người lao động, giải quyết kịp thời các tranh chấp. Trước hết, cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Công đoàn cho sát với thực tiễn, có tính khả thi cao, phù hợp với những quy định của Hiến pháp, Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp và các văn bản pháp luật liên quan. Đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn. Đối với các doanh nghiệp đông công nhân, cần phải có cán bộ công đoàn chuyên trách; nghiên cứu việc cơ cấu đại diện công đoàn vào Thường vụ cấp ủy ở những nơi có nhiều khu công nghiệp, đông công nhân.

          Công đoàn cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân nâng cao giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, ý thức tự lực, tự cường, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định con đường XHCN; tập hợp trí tuệ công nhân, phối hợp với các tổ chức đại diện quyền lợi cho công nhân trong doanh nghiệp để tham gia xây dựng, bổ sung, sửa đổi và thực hiện chính sách, pháp luật.

          Công đoàn cần chủ động mở rộng quan hệ với các tổ chức công đoàn trên thế giới và trong khu vực để chia sẻ, học hỏi kinh nghiệm, đồng thời để khẳng định vị trí và vai trò của Công đoàn Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ, hợp tác công đoàn các nước trên thế giới trong sự nghiệp vì quyền lợi của công nhân lao động, vì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.

          Có thế nói, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp công nhân nước ta đã và đang có sự biến đổi quan trọng, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Phát triển giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng để họ xứng đáng là giai cấp lãnh đạo cách mạng, là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế./.

 

[1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb CTQG sự thật,

Hà Nội 2021, tr 166.

Video liên quan

Chủ Đề