Truyện lục vân tiên cứu kiều nguyệt nga dài bao nhiêu câu
Đọc truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu bản Quốc Ngữ 2082 câu Full, tóm tắt truyện lục vân tiên cứu kiều nguyện nga hay nhất, Vân Tiên Cổ Tích Tân Truyện
Lục Vân Tiên là một tác phẩm truyện thơ nôm nổi tiếng của Nguyễn Đình Chiểu, được sáng tác vào cuối thế kỷ 19 và được Trương Vĩnh Ký cho xuất bản lần đầu tiên vào năm 1889. Đây là một trong những sáng tác có vị trí cao của văn học miền Nam Việt Nam.
Truyện Lục Vân Tiên (mà người miền Nam thường gọi là thơ Lục Vân Tiên) là một cuốn tiểu thuyết về luân lý, cốt bàn đạo làm người với quan niệm văn dĩ tải đạo. Tác giả muốn đem gương người xưa mà khuyên người ta về cương thường - đạo nghĩa.
Lục Vân Tiên truyện ấn bản Giáp Tuất do Duy Minh Thị phát hành năm 1874 Mục lục
Trước đèn xem truyện Tây minh[1],
Gẫm cười hai chữ nhơn tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình. Có người ở quận Đông-thành,
Tu nhân tích đức sớm sanh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,Tuổi vừa hai tám[2] nghề chuyên học hành.
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình[3] lao đao.
Trước là báo bổ sau là hiển vang[7]".
Máy trời[8] chẳng dám nói ra,
Thầy cho hai đạo phù thần[9] đem theo.
Nhân cơ tàng sự dặn rằng[13]:
Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan[15].
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai[16].
Tiên rằng: "Thiên các nhứt phương[17],
Mang đai Tử-lộ quảy bầu Nhan Uyên[18].
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay[19]".
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu[22].
Chạy đi cho khỏi kẻo âu[23] tới mình".
Khác nào Triệu tử phá vòng Đương-dang[27].
Gẫm câu báo đức thù công[29],
Của này là của vất vơ[32],
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây[33].
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào[34],
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai[37].
Trăm năm cho vẹn chữ tùng[39] mới an.
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình[42],
No nao[44] trả đặng công ơn cho chàng".
Sao sao[45] chẳng kíp thời chầy,
Dời chơn ra chốn hoa đình[46],
Chữ tình càng tưởng càng thâm[47], Chú thích cuối trang[sửa]
Truyện nàng sau hãy còn lâu,
Nhớ câu bình thủy tương phùng[2],
Cho con trả nợ thanh khâm[4] cho rồi".
Kiểng xinh như vẽ người tươi như dồi[7].
Này dâu nam giản nọ trai đông sàng[11].
Đại khoa dầu đặng tiểu khoa[13] lo gì".
Tên là Tử Trực văn chương tót đời[14].
Lấy câu bình thủy hữu duyên[16] làm đề".
Có đâu én hộc[21] sánh vai một bầy.
Xin về mai sẽ thượng trình[22] cùng nhau".
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình[23].
Tấm lòng thương gió nhớ mưa[27],
Chàng dầu cung quế xuyên dương[29],
Ba tầng cửa Võ[37] một giờ nhảy qua.
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây[38]".
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau[39]".
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng[41] đôi mươi.
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề[42]".
Bĩ bàng[45] trà rượu đã xong,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi[46].
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ[47],
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng[49]?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào[51],
Ghét đời U Lệ đa đoan[53],
Ghét đời thúc quí phân băng[55],
Gặp cơn Hớn mạt đã đành phôi pha[59].
Thương người Nguyên-lượng[61] ngùi ngùi,
Thương ông Hàn Dũ[62] chẳng may,
Quán rằng: "Nghiêu Thuấn[66] thuở xưa,
Nghiêm Lăng[72] đã mấy đua bơi,
Đây đà nhớ lại bảy người Trước-lâm[76].
Rừng nhu biển thánh[77] minh mông,
Khai phong mới tỏ sự cơ[78],
Tớ thầy than thở liệu lời qui lai[79].
Cứ theo trong sách Văn công[80] mà làm".
Gió mưa đâu phút gãy nhành thiên hương[83].
Xảy đâu bạc tác[84] vừa ra,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần[85]".
Thấy vầy nên mới tị trần[86] đến đây.
Nói rồi quày quã[87] ra đi,
Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành[88].
Mịt mù nào thấy chi đâu[89],
Rạng ngày coi mạch đầu thang[91] mới đành.
Lục quân Tứ vật thang danh[100].
Nào ai đòi cuộc đòi đàn[113] chi ai".
E khi đường sá lẽ nào biết đâu[115]?
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào[117].
Hóa ra làm quẻ du hồn[125],
Pháp rằng: "Ấn[127] đã cao tay,
Pháp hay đạo hỏa phó thang[131],
"Mời ông Bàn Cổ[134] tọa tiền chứng miêng.
Cùng là tam phủ Động-đình Xích-lân[141]. Kiếm đường tráo chác[142] đuổi đi khỏi vòng: "Ở đây làng xóm khó lòng, E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe, Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm. Những lo chạy hết một trăm, Mình ve khô xép ruột tằm héo don. Thương thay tiền mất tật còn,Bơ vơ đất khách thon von[143] thế này. Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,Tôi đi khuyên giáo[144] đỡ ngày gạo rau". Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,Tiểu đồng dìu dắt gần cầu Lá-buôn[145]. Đương khi mưa gió luông tuồng, Nguời buồn lại gặp kiểng buồn khá thương! Xiết bao ăn tuyết nằm sương, Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao! Dầu cho tài trí bực nào,Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ. Tiên rằng: "Đi đã ngất ngơ, Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chơn". Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng, Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi". Non tây vừa khuất mặt trời, Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại-đề. Trường thi một lũ vừa về, Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm: "Anh về nay đã hai rằm[146], Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây". Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may, Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?" Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao, Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.Một mình về trước viếng thân, Hai người trở việc còn lần đi sau. Đương cơn hoạn nạn gặp nhau, Người lành nỡ bỏ người đau sao đành. Từ đây tới quận Đông-thành,Trong mình có bịnh bộ hành sao xong. Lần hồi đến chốn giang trung, Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau". Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen này".Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây, Tiểu đồng người tới trước này cùng ta. Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa, Phòng khi sông biển phong ba bất kì". Tiểu đồng vội vã ra đi,Muốn cho đặng việc quản gì lao đao. Trịnh Hâm trong dạ gươm dao, Bắt người đồng tử trói vào gốc cây: "Trước cho hùm cọp ăn mày, Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".Vân Tiên ngồi những đợi trông, Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn. Vân Tiên than khóc nằm lăn: "Có đâu địa hãm thiên băng thình lình[147]! Bấy lâu đất khách lưu linh,Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau. Nay đà hai ngả phân nhau. Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình!". Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình, Tôi xin đưa tới Đông-thành thời thôi".Vân Tiên chi xiết lụy rơi, Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề. Tiểu đồng bị trói khôn về, Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang: "Phận mình đã mắc tai nàn,Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ. Xiết bao những nỗi dật dờ, Đò giang nào biết bụi bờ nào hay. Vân Tiên hồn có linh rày, Đem tôi theo với đỡ tay chơn cùng!".Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng, Đêm khuya ngồi dựa cội tòng ngủ quên.Sơn quân[148] ghé lại một bên, Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng. Tiểu đồng thức dậy mơ màng,Xem qua dấu đất ràng ràng[149] mới hay. Nửa mừng nửa lại sợ thay, Chạy ra chốn cũ kiếm thầy Vân Tiên. Mặt trời vừa khỏi mái hiên, Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.Hỏi thăm bà quán giữa đàng:"Bữa qua có thấy người tang[150] chăng là?" Quán rằng: "Thôi đã ra ma, Khi mai làng xóm người đà đi chôn". Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng". Tay lau nước mắt rưng rưng, Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao. Tiểu đồng vội vã bước vào, Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy, Chẳng hay người thác mả này là ai?" Người rằng: "Một gã con trai, Ở đâu không biết lạc loài đến đây. Chơn tay mặt mũi tốt thay,Đau chi nên nỗi nước này khá thương". Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han, Nằm lăn bên mả khóc than một hồi. Người đều xem thấy thương ôi! Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang, Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề. Một mình ở đất Đại-đề, Sớm đi khuyên giáo tối về quải đơm[151]. Dốc lòng trả nợ áo cơm,Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền. Thứ này đến thứ Vân Tiên, Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than. Trong khăn lụy nhỏ chứa chan, Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.Lênh đênh thuyền giữa biển đông,Riêng than một tấm cô bồng[152] ngẩn ngơ. Đêm khuya lặng lẽ như tờ, Nghinh ngang sao mọc[153] mịt mờ sương bay. Trịnh Hâm khi ấy ra tay,Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời[154]. Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,Cho người thức dậy lấy lời phôi pha[155]. Trong thuyền ai nấy kêu la, Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.Vân Tiên mình lụy giữa dòng, Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày. Vừa may trời đã sáng ngày, Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.Hối con vầy lửa một giờ[156]. Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày. Vân Tiên vừa ấm chơn tay, Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi. Ngỡ thân mình phải nước trôi, Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.Ngư ông khi ấy hỏi han, Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa. Ngư rằng: "Người ở cùng ta. Hôm mai hẩm hút[157] với già cho vui". Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,Thân tôi như thể trái mùi[158] trên cây. May đà trôi nổi đến đây, Không chi báo đáp mình này trơ trơ". Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ, Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.Rày doi[159] mai vịnh vui vầy, Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng. Một mình thong thả làm ăn,Khỏe quơ chài kéo mệt quăng câu dầm.Nghêu ngao nay chích mai đầm[160], Một bầu trời đất vui thầm ai hay. Kinh luân đã sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời.Thuyền nan một chiếc ở đời, Tắm mưa chải gió trong vời Hàn-giang." Tiên rằng: "Vậy cũng một làng, Võ công người ở gần đàng đây chăng?" Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần,Khói ba khúc vịnh thì lần đến nơi." Tiên rằng: "Xưa đã gá lời, Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương. Vợ chồng là đạo tào khương, Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.Trăm năm muốn trọn ân tình, Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau. Chút nhờ cứu tử[161] ơn sâu, Xin đem tới đó trước sau cho tròn." Ngư rằng: "Làm đạo rể con,Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim. Sợ bay mà mỏi sức chim, Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xưa. E khi chậm bước tới trưa, Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.Mấy ai ở đặng hảo tâm, Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi. Mấy ai hay nghĩ việc đời, Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giàu. Đã ba thứ tóc trên đầu,Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời". Vân Tiên thưa đã hết lời,Ngư ông chẳng đã[162] tách vời đưa sang. Dắt Tiên vào chốn hậu đàng, Võ công xem thấy lòng càng hổ ngươi.Chẳng qua sợ thế gian cười, Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa! Ngư ông đã có công đưa, Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn". Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn,Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng. Nhớ xưa trong núi Lư-san,Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên[163]. Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,Giúp người Hạng Võ qua miền Ô-giang[164]. Xưa còn thương kẻ mắc nàn, Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn". Một lời gắng giúp keo sơn, Ngư ông từ giã lui chơn xuống thuyền. Võ công khôn ngớt lòng phiền,Ân tình thế lợi khó tuyền đặng vay. Dạy Tiên: "Ngươi hãy ngồi đây, Cho ta trở lại sau này liệu toan". Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang, Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?Mặc con toan liệu làm sao, Vốn không ép vợ lẽ nào ép con". Loan rằng: "Gót đỏ như son, Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn? Ai cho sen muống một bồn,Ai từng chanh khế sánh phồn[165] lựu lê? Thà không trót chịu một bề, Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu. Dốc lòng chờ đợi danh nhu, Rể đâu có rể đui mù thể ni.Đã nghe người nói hội này, Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa. Ta dầu muốn kết sui gia, Họ Vương họ Võ một nhà mới xinh". Công rằng: "Muốn trọn việc mình,Phải toan một chước dứt tình mới xong. Nghe rằng: trong núi Thương-tòng, Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra. Đông-thành ngàn dặm còn xa, Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".Phút vừa trăng đã đứng đầu, Vân Tiên ngồi trước nhà cầu[166] thở than. Võ công ra trước dỗ chàng: "Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông-thành". Ra đi đương lúc tam canh,Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên. Bỏ rồi rón rén bước liền, Xuống gay[167] chèo quế dời thuyền tách xa. Tiên rằng: "Các chú đưa ta, Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.Ghi lòng dốc trọn thảo ngay, Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên". Lặng nghe vẳng tiếng hai bên, Trong hang tăm tối đá trên chập chồng. Vân Tiên khi ấy hãi hùng,Nghĩ ra mới biết Võ công hại mình.Nực cười con tạo trớ trinh[168], Chữ duyên tráo chác chữ tình lãng xao. Ngẫm mình tai nạn biết bao, Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.Dây sầu ai khéo vương mang, Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo[169]. Trong hang sau trước quạnh hiu, Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi. Oan gia nợ đã khéo gây,Ôi thôi thân thể còn gì mà toan. Đã đành xa cõi nhơn gian, Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co. Đêm khuya ngọn gió thổi lò, Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng[170]. Năm ngày chịu đói khát ròng, Nhờ ba huờn thuốc đỡ lòng hôm mai. Du thần[171] xem thấy ai hoài, Xét trong mình gã có bài phù tiên. Mới hay là Lục Vân Tiên.Cùng nhau dìu dắt đều liền đem ra. Khỏi hang một dặm vừa xa, Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông. Du thần trở lại sơn trung, Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.Lão tiều cơm gói sẵn sàng, Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng. Tới đường đại lộ là chừng, Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than. Hay là yêu quái tà gian,Rung cây nhát lão làm đuờng hại nhân. Lão tiều liền bước lại gần, Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn. Chi bằng lên tiếng hỏi han: "Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"Vân Tiên nghe tiếng mừng thay, Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau. Lão tiều nghe nói giờ lâu, Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:"Ít người trong tuyết đưa than[172], Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương". Vân Tiên nghe nói mới tường, Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay: "Ngửa trông lượng cả cao dày, Cứu trong một buổi ơn tày tái sanh.Mai sau về tới Đông-thành, Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi". Lão tiều mới nói: "Thôi thôi, Làm ơn mà lại trông người sao hay? Già hay thương kẻ thảo ngay,Này thôi để lão dắt ngay về nhà". Tiên rằng. "Trong dạ xót xa, Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi[173]. Lại thêm rũ liệt tứ chi, Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".Lão tiều vội ngửa áo tơi, Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên: "Gắng mà ăn uống cho yên, Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà". Khỏi rừng ra tới ngã ba,May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.Lão tiều lật đật bôn trình[174], Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi. Vân Tiên nghe tiếng cố tri, Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh[175], Cớ sao nên nỗi thân hình thể ni?" Tiên ràng: "Chẳng xiết nói chi, Thân này nào có khác gì cây trôi. Linh đinh gió dập sóng dồi,Rày đây mai đó khôn rồi gian nan." Minh rằng: "Đây khó hỏi han, Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau." Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu. Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."Hớn Minh quỳ gối lạy liền: "Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành. Này hai lượng bạc trong mình, Tôi xin báo đáp chút tình cho ông". Tiều rằng: "Vốn lão tình không,Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai. Tấm lòng chẳng muốn của ai, Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng. Kìa non nọ nước thong dong, Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.Công hầu phú quý mặc ai, Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày". Vân Tiên nghe biết người ngay, Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn. Lão tiều trở lại lâm sơn,Tiên Minh hai gã đều hoàn am mây[176]. Tiên rằng: "Đã gặp khoa này, Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?" Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi, Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.Anh thời về trước tỉnh thân[177]. Tôi thời mang gói sau lần ra kinh. Đi vừa tới huyện Loan-minh, Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng. Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì[178]. Tôi bèn nổi giận một khi, Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò. Mình làm nỡ để ai lo, Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.Án đày ra quận Sóc-phang, Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây. Vừa may mà gặp chùa này, Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương". Vân Tiên nghe nói thảm thương,Lại bày một khúc tai ương phận mình. Minh nghe Tiên nói động tình, Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng. Tiên rằng: "Thương cội xuân huyên[179], Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.Trông con như hạn trông dào, Mình này trôi nổi phương nào biết đâu. Vầng mây giăng bạc trên đầu,Ba năm chưa trọn một câu sanh thành[180]. Hữu tam bất hiếu đã đành[181], Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan. Tưởng thôi như cắt ruột gan, Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần". Minh rằng: "Người ở trong trần, Có khi phú quí có lần gian nan.Thấp cao vàng biết tuổi vàng, Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê. Thôi thôi anh chớ vội về, Ở đây nương náu toan bề thuốc thang. Bao giờ hết lúc tai nàn,Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh. Cam La[182] sớm gặp cũng xinh, Muộn mà Khương tử[183] cũng vinh một đời. Nên hư có số ở trời, Bôn chôn[184] sao khỏi đổi dời sao xong". Vân Tiên khi ấy an lòng, Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh. Võ công làm việc trớ trinh[185], Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương. Kể từ định chước hại chàng,Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui. Ngày ngày trang điểm phấn dồi, Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê. Xảy đâu Tử Trực vừa về, Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền[186] xa chơi. Thương chàng phận bạc trong đời, Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng". Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa. Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa, Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình. Trời sao nỡ phụ tài lành, Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.Cùng nhau chưa đặng vuông tròn. Người đà sớm thác ta còn làm chi? Trong đời mấy bực cố tri, Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm?". Công rằng: "Ta cũng thương thầm,Tủi duyên con trẻ sắt cầm[187] dở dang. Thôi thôi khuyên chớ thở than, Đây đà tính đặng một đàng rất hay. Tới đây thời ở lại đây, Cùng con gái lão sum vầy thất gia[188]. Phòng khi hôm sớm vào ra, Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên". Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên[189], Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau. Vợ Tiên là Trực chị dâu,Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì. Chẳng hay người học sách chi, Nói sao những tiếng dị kì khó nghe? Hay là học thói nước Tề,Vợ người tử Củ đưa về Hoàn công[190]. Hay là học thói Đường cung[191], Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân? Người nay nào phải nhà Tần, Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm[192]. Nói sao chẳng biết hổ thầm,Người ta há phải là cầm thú sao?" Võ công hổ thẹn xiết bao, Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua. Thể Loan trong cửa bước ra, Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.Thiếp đà chẳng trọn lời thề, Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng[193], Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy. Chẳng ưng thời cũng làm khuây,Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng?". Trực rằng: "Ái Lữ Phụng-tiên,Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi[194]? Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi, Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa?Hổ hang vậy cũng người ta, So loài cầm thú vậy mà khác chi? Vân Tiên anh hỡi cố tri, Suối vàng có biết sự ni chăng là?" Tay lau nước mắt trở ra,Về nhà sắm sửa tìm qua Đông-thành. Võ công hổ thẹn trong mình,Năm ngày nhuốm bịnh thất tình chết oan[195]. Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang, Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.[h=4]Chú thích cuối trang[sửa][/h]
Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga,
Hà-khê phủ ấy theo cha học hành.
Kiều công lên chức thái khanh,
Chỉ sai ra huyện Đông-thành chăn dân[1].
Biệt tin từ ấy nhẫn nay[2],
Riêng than chút phận tơ điều[3],
Ô-qua[11] quốc hiệu binh nhung dấy loàn.
Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên[12].
Sao sao[14] một thác thời xong,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh[15]:
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì[16]:
Nghiệm trong tình ý dần lân[17] hỏi liền: "Tượng này sao giống Vân Tiên? Bấy lâu thờ có linh thiêng đều gì?" Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi, Một câu chánh tiết[18] phải ghi vào lòng. Trăm năm cho vẹn đạo tòng,Sống sao thác vậy một chồng mà thôi". Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi, Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa? Làm người trong cõi gió mưa, Bảy mươi mấy mặt người xưa thấy nào.Chúa xuân còn ở vườn đào, Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần. Chúa đông ra khỏi vườn xuân, Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang. Ở đời ai cậy giàu sang,Ba xuân[19] mòn hết, ngàn vàng khôn mua. Hay chi như vãi ở chùa, Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh. Linh đinh một chiếc thuyền tình, Mười hai bến nước biết mình vào đâu?Ai từng mặc áo không bâu[20], Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau? Nàng sao chẳng nghĩ trước sau, Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình". Nàng rằng: "Xưa học sử kinh,Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.Chẳng phen thói nước Trịnh đâu[21], Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình". Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh, Sao không soi xét để mình ngồi không.Hồ-dương xưa mới góa chồng, Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa[22]. Hạ Cơ[23] lớn nhỏ đều ưa, Sớm đưa Doãn Phủ, tối ngừa Trần quân. Hớn xưa Lữ hậu thanh xuân,Còn vừa Cao tổ mấy đành Dị Ki[24]. Đường xưa Võ Hậu thiệt gì, Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già[25]. Cứ trong sách vở nói ra, Một đời sung sướng cũng qua một đời.Ai ai cũng ở trong trời,Chính chuyên trắc nết[26] chết thời cũng ma. Người ta chẳng lấy người ta, Người ta đâu lấy những là tượng nhân? Cho nên tiếc phận hồng nhan,Học đời Như Ý vẽ chàng Văn Quân[27]". Nguyệt Nga biết đứa tiểu nhân, Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi. Bùi ông ngon ngọt trau dồi, Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình:"Làm người chấp nhứt[28] sao đành, Hễ là lịch sự có kinh có quyền[29]. Tới đây duyên đã bén duyên, Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai? Nhớ câu: Xuân bất tái lai,Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn. Làm chi thiệt phận hồng nhan, Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng. Vọng phu xưa cũng trông chồng, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha.Thôi thôi khuyên chớ thở ra, Vầy[30] cùng con lão một nhà cho xuôi". Nguyệt Nga giả dạng mừng vui, Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy. Tôi xin dám gởi lời này,Hãy tua[31] châm chậm sẽ vầy nhơn duyên. Tôi xin lạy tạ Vân Tiên, Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung". Cha con thấy nói mừng lòng, Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê.Chiếu hoa gối sách bộn bề, Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra[32]. Xảy vừa tới lúc canh ba, Nguyệt Nga lấy bút đề và câu thơ. Dán trong vách phấn một tờ,Vai mang bức tượng kịp giờ ra đi. Hai bên bờ bụi rậm rì, Đêm khuya vắng vẻ gặp khi trăng lờ. Lạ chừng đường sá bơ vơ, Có bầy đôm đốm sáng nhờ đi theo.Qua truông rồi lại lên đèo, Dế kêu giắng giỏi sương gieo lạnh lùng. Giày sành đạp sỏi[33] thẳng xông, Vừa may trời đã vừng đông lố đầu. Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,Tìm nơi bàn thạch ngỏ hầu nghỉ chưn. Người ngay trời phật cũng vưng, Lão bà chống gậy trong rừng bước ra. Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,Khá tua[34] gắng gượng về nhà cùng ta. Khi khuya nằm thấy Phật bà, Người đà mách bảo nên già tới đây". Nguyệt Nga bán tín bán nghi, Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà. Bước vào thấy những đàn bà,Làm nghề bô vải lụa là mà thôi. Nguyệt Nga đành dạ ở rồi, Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào. Hỏi thăm ra chốn Ô-sào, Quan san mấy dặm đi vào tới nơi[35]! Chú thích cuối trang[sửa]
Đoạn này tới thứ ra đời[1],
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhuốm bịnh đường xa,Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.Tiên rằng: "Ta lại hồi hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,Đã đành hai chữ quy y[2] chùa này".
Tiên rằng: "Phước gặp khoa này,
Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
Mấy năm hẩm hút tương rau[3],
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh[4]:
Nhờ nàng nên mới ra bề[9],
Cũng vì mắc nịnh biếm quyền[10] đuổi ra".
Đất trời bao nỡ chia bâu[12] cho đành?
"Xin dâng một tướng anh hùng đề binh[17].
Sắc phong phó tướng bình di[18],
Lãnh cờ bình tặc[22] phá thành Ô-qua.
Phút đâu binh đáo quan thành[23],
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô[26].
Lần theo đường núi phút đà tam canh[28].
Để lời thệ hải minh sơn[30],
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ[31],
Minh rằng: "Tẩu tẩu[33] ở đâu,
Đem binh trở lại trào ca đề huề[34].
"Ô-qua dấy động qua mâu[35] cũng vì
Khôn soi chậu úp[36] cũng mang tiếng đời.
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền[38] mà thôi.
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng[39].
Thấy vầy nên dửng dừng dưng[41],
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn[43].
Tuần dư[45] phút đã gần kề Hàn-giang.
Soi gương đánh phấn ra phòng[46] rước duyên.
Ngư tiều nay đặng danh biêu[47],
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi[48]".
Ca ca sao chẳng chịu đi[49],
Bày ra sáu lễ[50] sẵn sàng,
Sanh con sau nối gót lân[51] đời đời. Chú thích cuối trang[sửa]
|