Tại sao béo phì gây nhồi máu cơ tim
Trước tiên, béo phì làm tăng nguy cơ tăng huyết áp. “Huyết áp ở những người béo phì rất dễ tăng và chính huyết áp lại là nguy cơ lớn nhất gây ra các bệnh tim mạch”, GS.TS Đỗ Doãn Lợi nói.
Bên cạnh đó, béo phì khiến nguy cơ tăng các bệnh mạch vành. Mỡ, cholesterol làm hẹp mạch vành, cản trở lượng máu vận chuyển đến nuôi tim, gây thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim rất nguy hiểm. Suy tim là hậu quả hầu như tất yếu của các bệnh tim mạch và có tỉ lệ tử vong rất cao. Béo phì còn làm rối loạn lipid máu, khiến tăng nồng độ triglycerid và LDL-cholesterol, làm giảm nồng độ HDL-cholesterol trong máu. Đó là nguy cơ rất lớn gây hẹp các mạch máu, là nguyên nhân của nhồi máu cơ tim, tắc mạch não, mạch tạng, mạch chi … Đặc biệt, khả năng dẫn đến đột qụy ở người béo phì cao hơn nhiều lần người bình thường. Người có BMI lớn hơn 30 dễ bị tử vong do bệnh tai biến mạch máu não, xơ vữa động mạch. Những người béo phì mức độ thấp cũng phải cẩn trọng nếu có thêm các yếu tố nguy cơ khác (tiểu đường tuýp 2, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu) thì nguy cơ đột quỵ vẫn có thể xảy ra. Chuyên gia này cũng cho biết, các bệnh tim mạch có tỷ lệ tử vong cao nhất trong tất cả các bệnh. Cứ 100 người chết thì có tới khoảng 1/3 số họ là chết do bệnh tim mạch. Người béo phì có nguy cơ bị những bệnh về tim mạch và nguy cơ tử vong cao gấp 2-3 lần so với người không béo phì. Hơn nữa, nếu người béo phì còn kèm theo các yếu tố khác như hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, ít hoạt động thể lực, tiểu đường, tuổi cao… thì nguy cơ bị các bệnh tim mạch và nguy cơ tử vong cao gấp nhiều lần. Béo phì có thể gây ra các bệnh lý tim mạch nên có thể gây ra những cơn đau tim. Các thống kê đã cho thấy, nguy cơ tử vong rất cao đối với người mắc các bệnh tim mạch. Nhưng GS.TS Đỗ Doãn Lợi cho biết, khoa học cũng đã chứng minh rằng, đa số bệnh tim mạch (tới 70-80%) có thể phòng tránh được nếu loại trừ được các yếu tố nguy cơ, trong đó béo phì là một yếu tố nguy cơ đáng kể, song song với các yếu tố nguy cơ khác cũng có thể loại bỏ được, như hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, lười vận động thể lực, stress trong công việc, cuộc sống… Hiệu quả là bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn mỡ máu... không đến hoặc đến chậm hơn, nhẹ hơn, thậm chí coi như không có nếu được điều trị tốt. Tất cả các biện pháp kể trên sẽ làm giảm rõ rệt nguy cơ bị các bệnh tim mạch. Theo GS.TS Đỗ Doãn Lợi, để phòng và chữa béo phì, cần loại trừ các nguyên nhân gây ra béo phì. Trước tiên là cần có chế độ ăn hợp lý: Tránh ăn mỡ, các phủ tạng động vật, da gà vịt; cần hạn chế lượng ăn các chất bột (cơm, mỳ phở, bún …), hạn chế đồ ngọt, bánh, hạn chế rượu bia; cần tăng các loại rau, củ (su hào, su su, củ cải, cà rốt …), hoa quả, cá, các loại hạt (lạc, hướng dương, bí, hạnh nhân …). Song song với chế độ ăn, cần tăng cường vận động để tiêu hao năng lượng và giúp các cơ quan, các tuyến nội tiết, tiêu hóa… hoạt động tốt hơn. “Mọi hoạt động thể lực đều tốt, tất nhiên tùy sở thích và khả năng, thể lực của từng người. Đi bộ, đạp xe, bơi, tập dưỡng sinh, aerobic, kể cả vẩy tay, đều là các hoạt động tốt cho một cơ thể khỏe mạnh về thể chất và tinh thần, đặc biệt là cho một trái tim khỏe”, chuyên gia này nhấn mạnh. Thừa cân và béo phì đang có xu hướng phổ biến và tăng nhanh trong cộng đồng, là một trong những vấn đề nổi cộm ở các nước phát triển và có xu hướng tăng mạnh ở các nước đang phát triển. Theo báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2016 trên thế giới tỷ lệ thừa cân, béo phì là 39% ở nữ giới và 39% ở nam giới từ 18 tuổi trở lên, tỷ lệ này ở trẻ em và thanh thiếu niên ( 5 -19 tuổi) là 18%. Tại Việt Nam số người thừa cân béo phì đang ngày càng gia tăng ở cả trẻ em và người lớn. Theo kết quả nghiên cứu của cục Y tế dự phòng Bộ Y tế thì tỷ lệ thừa cân béo phì ở nước ta hiện nay là 25%. Người bị béo phì ngoài thân hình nặng nề, khó coi… còn có nguy cơ mắc nhiều bệnh như rối loạn lipit máu, tăng huyết áp và các bệnh lý Tim mạch, sỏi mật, đái tháo đường, bệnh xương khớp… và ung thư. Béo phì được coi là “bệnh của người nghèo ở các nước phát triển và người giàu của các nước đang phát triển”. Với các nước đang phát triển, như Việt Nam, thừa cân – béo phì cũng đang dần trở thành vấn đề đáng lo ngại. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) định nghĩa béo phì là tình trạng tích lũy mỡ quá mức và không bình thường tại một vùng cơ thể hay toàn thân đến mức ảnh hưởng tới sức khỏe. Béo phì có ảnh hưởng gì đến sức khoẻ? Một loạt các bệnh lý sau đây đã được biết rõ là có liên quan đến thừa cân – béo phì:
Thế nào là béo phì? Có hai dạng béo phì, ở dạng thứ nhất, mỡ thừa thường tập trung tại vùng bụng và thường gặp ở nam giới (gọi là “bụng bia” hay người hình quả táo). Dạng thứ hai được đặc trưng bởi sự tích lũy mỡ nhiều ở vùng mông và đùi, thường gặp ở phụ nữ (người hình quả lê). Kiểu béo phì ở bụng có liên quan với sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, đặc biệt là bệnh mạch vành và đột qụy. Các nhà khoa học khuyến cáo, nếu bạn là nam giới, tốt nhất không nên để vòng bụng vượt quá 90% vòng mông, nếu bạn là phụ nữ, hãy cố gắng duy trì con số này dưới 80%. Hiện nay, Tổ chức y tế thế giới thườg dùng Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index – BMI) để nhận định tình trạng gầy béo. BMI (là chỉ số khối cơ thể ) được tính theo công thức BMI= Trọng lượng cơ thể (kg)/[chiều cao (m)]2, Hiệp hội Đái tháo đường Đông Nam Á năm 2001 thống nhất đánh giá thừa cân, bép phì theo BMI như sau: + Thiếu cân: BMI < 18,5 + Bình thường: BMI từ 18,5 – 22,9 + Thừa cân: BMI từ 23 – 24,9 + Béo phì độ I: BMI từ 25 – 29,9 + Béo phì độ II: BMI ≥ 30 Những nguyên nhân dẫn đến thừa cân và béo phì là gì? Có nhiều yếu tố góp phần trong việc tăng cân. Các yếu tố này bao gồm chế độ ăn uống, thiếu tập thể dục, các yếu tố môi trường và di truyền. Viện Tim, Phổi và Máu Hoa Kỳ (NHLBI) đưa ra một số nguyên nhân gây thừa cân và béo phì sau đây: Chế độ Ăn uống và hoạt động thể lực Mọi người đều tăng cân khi họ ăn nhiều calo hơn so với số Calo bị đốt cháy khi hoạt động thể lực. Sự mất cân bằng này là đóng góp lớn nhất cho việc tăng cân. Yêu tố Môi trường Môi trường, xã hôi xung quanh cũng ảnh hưởng đến khả năng duy trì cân nặng khỏe mạnh của chúng ta. Cu thể là – Tình trạng không có công viên, vỉa hè để đi bộ, giá cả khá cao của các phòng tập thể dục, các điều này khiến mọi người khó có thể hoạt động thể chất. – Hiện tượng khẩu phần ăn sẵn quá lớn so với trước đây, làm lượng calo ăn vào tăng lên (vị dụ ở mỹ một xuất khoai tây chiên cách đây 20 năm chỉ khoáng 210 calo thì nay đã tăng tới 610 calo) mà để đốt cháy được 400 calo (tăng lên này) chúng ta cần phải đi bộ khoảng 2h20 phút. -Một số người không có đủ khả năng để mua thực phẩm sạch như trái cây và rau quả tươi. -Tình trạng quảng cáo thực phẩm đã khuyến khích mọi người mua thực phẩm không lành mạnh, chẳng hạn như các đồ ăn nhiều chất béo và đồ uống có đường. Yếu tố Di truyền học: Nghiên cứu cho thấy di truyền cũng đóng một vai trò trong béo phì. Các gen có thể trực tiếp gây ra béo phì trong các rối loạn như hội chứng Prader-Willi. Các gen cũng có thể góp phần làm cho một người dễ bị tăng cân. Tuy nhiên các nhà khoa học khẳng định rằng gen có thể làm tăng khả năng bị béo phì của một người, nhưng đều cần có thêm các yếu tố bên ngoài như ăn quá nhiều hoặc ít hoạt động thể chất mới đủ điều kiện để cho một người tăng cân. Tình trạng sức khỏe và thuốc Một số bệnh về nội tiết có thể gây ra thừa cân và béo phì, chẳng hạn như bệnh suy tuyến giáp, hội chứng Cushing và hội chứng buồng trứng đa nang. Một số loại thuốc cũng có thể gây tăng cân, các thuốc này bao gồm corticosteroid, thuốc chống trầm cảm và thuốc chống động kinh. Căng thẳng, yếu tố cảm xúc và giấc ngủ kém Một số người có thể ăn nhiều hơn bình thường khi buồn chán, tức giận, buồn bã hoặc căng thẳng. Các nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng người càng ít ngủ thì họ càng dễ bị thừa cân hoặc béo phì. Điều này là do khi ngủ một số hormone được giải phóng ra có tác dung kiểm soát sự thèm ăn và kiểm soát sự dụng năng lượng của cơ thể. Phòng chống thừa cân – béo phì như thế nào? Việc này đòi hỏi nghị lực rất lớn. Rất gian khổ và dễ chán nản vì kết quả không thấy ngay trước mắt và lại các thức ăn giàu năng lượng lại như những cám dỗ mang tính bản năng. Hãy kiên trì và tập trung.Vấn đề rất quan trọng là bạn cần có một chương trình hành động cụ thể với những mục tiêu thiết thực cho từng giai đoạn. Và bạn cần phải hiểu rằng:
Vậy thì, tôi đang bị béo phì và tôi đã sẵn sàng tích cực để giảm béo, tôi sẽ phải làm gì đây?
Nên chọn chế độ giảm cân như thế nào? Có rất nhiều chế độ ăn được đề xuất để giảm cân chống béo phì. Việc chọn chế độ ăn uống phải dựa trên hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống. Đôi khi cũng nên hỏi ý kiến tư vấn của bác sỹ. Tuy nhiên, cần lưu ý những nguyên tắc cơ bản như sau:
Chế độ ăn ít chất béo có ý nghĩa gì?
Chế độ ăn chay thì sao?
Vậy tôi có thể ăn nhiều hơn không khi tôi đã tập thể dục đều?
Các nghiên cứu đã khuyên nên tập thể dục đều đặn ít nhất 30 phút hàng ngày trong tuần. Việc đó làm tiêu hao khoảng 700-1000 calories trong vòng một tuần và bạn cần thiêu đốt khoảng 3500 calories để giảm được nửa cân. Vai trò của phẫu thuật trong giảm cân? Đã có vài kỹ thuật được ứng dụng để giảm cân nhưng cũng có những nguy cơ nhất định. Nói chung, việc phẫu thuật chỉ đặt ra khi bệnh nhân quá béo. Lời khuyên cho việc phòng chống thừa cân – béo phì Béo phì có xu hướng ngày càng phổ biến. Nó thực sự là mối nguy hiểm về sức khoẻ chứ không phải chỉ đơn thuần là vấn đề thẩm mỹ hoặc sự thổi phồng. Không có một phương cách kỳ diệu nào để giảm cân nhanh chóng mà chỉ có sự quyết tâm bền bỉ mới là bí quyết thành công. Nó là vấn đề lâu dài và cần phải giải quyết liên tục. Việc giảm cân ở người béo phì chắc chắn làm giảm được nguy cơ bệnh tật (đặc biệt bệnh tim mạch) và nâng cao chất lượng cuộc sống. Không có một mục tiêu giảm cân nào được coi là thống nhất. Tuỳ từng thể trạng và nói chung nên đặt mục tiêu ban đầu giảm 10% trọng lượng sau đó tiếp tục cho đến mức trọng lượng lý tưởng. Các thuốc giảm cân không được khuyến cáo dùng một cách thường quy và thường là “lợi bất cập hại”. Theo PGS.TS.Nguyễn Thị Bạch Yến – Viện Tim mạch – Bệnh viện Bạch Mai |