So sánh elf và l.a năm 2024

Định dạng liên kết và thực thi (ELF) là định dạng tệp tiêu chuẩn phổ biến cho các tệp thực thi, mã đối tượng, thư viện dùng chung và các kết xuất lõi trong các hệ điều hành giống Unix. Đây là định dạng tệp nhị phân tiêu chuẩn được sử dụng bởi một số bộ xử lý khác nhau, bao gồm IBM, AMD, Intel, ARM và MC68K và được sử dụng trên hầu hết các phiên bản Unix, bao gồm Linux, Solaris, HP-UX và AIX. ELF ban đầu được phát triển bởi Phòng thí nghiệm hệ thống Unix vào năm 1993 như một phần trong quá trình triển khai System V Release 4 (SVR) và hiện được hỗ trợ bởi tất cả các hệ điều hành chính giống Unix.

ELF là định dạng tệp mô-đun, phân cấp và bao gồm các thành phần cốt lõi như tiêu đề, phân đoạn chương trình, phần, bảng ký hiệu và bảng định vị lại. Tiêu đề bao gồm các trường dành riêng cho máy cung cấp thông tin về cách tải và quản lý tệp thực thi. Các đoạn chương trình chứa các lệnh (mã) và các vùng bộ nhớ để lưu trữ dữ liệu. Các phần cung cấp thông tin chi tiết hơn về nội dung của tệp, bao gồm việc định vị lại chương trình và phân đoạn dữ liệu cũng như định nghĩa ký hiệu. Các bảng ký hiệu liệt kê tất cả các ký hiệu (bao gồm các biến toàn cục và biến tĩnh) trong mô-đun và các bảng định vị lại chứa thông tin chi tiết về việc định vị lại địa chỉ trong khi tải tệp.

ELF cung cấp tính linh hoạt cho khả năng tương thích nhị phân giữa các kiến trúc bộ xử lý khác nhau và cung cấp mức độ bảo vệ tốt cho mã và dữ liệu khỏi các sửa đổi trái phép. Ngoài ra, các tính năng trong ELF giúp các chương trình được chia sẻ dễ dàng hơn giữa các kiến trúc CPU và hệ điều hành khác nhau. Hơn nữa, định dạng ELF còn cung cấp các tính năng quan trọng đối với các hệ điều hành hiện đại, chẳng hạn như khả năng phân giải các ký hiệu bên ngoài và chia sẻ mã, ngăn chặn việc sao chép mã thực thi.

ELF vẫn được sử dụng rộng rãi, mặc dù các định dạng tệp đối tượng khác, chẳng hạn như Mach-O, đang trở nên phổ biến. Bất chấp một số ưu điểm của các định dạng tệp khác, ELF vẫn là tiêu chuẩn hàng đầu cho định dạng tệp đối tượng có thể thực thi và chia sẻ, với sự hỗ trợ trên Linux, Solaris và các hệ điều hành giống Unix khác.

Elder Kindred, Elder Race, Elder People. Dịch. Nếu ngôn ngữ dịch có hai dạng so sánh của old thì chọn dạng cổ hơn. (Trong tiếng Anh dạng cổ hơn elder hàm nghĩa cả hơn về tuổi tác và quan hệ họ hàng).

Sự tương tự giữa Eldar, dạng số nhiều của Elda, Elf phương Tây, với Elder chỉ là tình cờ. Tên gọi Elda, “Elf”, đã được đặt ra từ lâu trước khi viết Chúa tể những chiếc Nhẫn. Không cần cố gắng bắt chước sự tương tự này, vì không có ích mà cũng không quan trọng. So sánh Elder Days, hàm ý một thời đại cổ xưa hơn nữa trong lịch sử những người thuộc cùng dòng dõi đó, nghĩa là trong thời các tổ tiên xa xưa của họ.

Tiếng Việt: Lớp Cựu Niên, Cựu Tộc

Elf-friend. Dịch. Phát xuất từ AÆlfwine, dạng tiếng Anh của một cái tên German cổ (còn xuất hiện chẳng hạn trong tiếng Lombardy là Alboin), dù rất nhiều nhân vật trong sách sử mang cái tên tiếng Anh Cổ này hẳn không nhận ra nghĩa phân tích của nó, hoặc không cho là quan trọng.

Tiếng Việt: Bạn Tiên.

Elven-smiths. Dịch. Lưu ý: Dạng cổ elven dùng làm tính từ hay từ tố trong Chúa tể những chiếc Nhẫn tuyệt đối không được đánh đồng với từ elfin đã thành hạ tiện trong tiếng Anh, mang liên tưởng hoàn toàn không phù hợp. Hoặc dùng từ có nghĩa elf trong ngôn ngữ dịch (hoặc yếu tố đầu tiên trong từ ghép), hoặc tách thành Elvish (+ smiths, v.v.), dùng dạng tương đương trong ngôn ngữ dịch của tính từ chuẩn là Elvish.

Riêng về tiếng Đức: tôi muốn đề nghị, một cách dè dặt, rằng có lẽ nên tránh dùng Elf, elfen làm từ tương đương với Elf, elven. Elf, theo tôi hiểu, được mượn từ tiếng Anh, và có thể còn giữ lại phần nào những liên tưởng thuộc loại tôi đặc biệt mong tránh ở đây (nếu được): ví dụ liên tưởng trong thơ Drayton hoặc trong Giấc mộng đêm hè [của Shakespeare] (theo tôi hiểu chính bản dịch vở kịch này đã lần đầu tiên đưa chữ elf vào tiếng Đức). Nghĩa là việc thu nhỏ “elf” thành một sinh vật giống loài bướm sống trong hoa, xinh xẻo và huyễn hoặc.

Tôi đang cân nhắc liệu chữ Alp (hoặc tốt hơn nữa là để dạng Alb, một biến thể vẫn còn thấy trong các từ điển hiện đại, vốn là dạng quy chuẩn hơn trong lịch sử ) có dùng được hay không. Đấy mới là từ cùng gốc đích thực của elf trong tiếng Anh; và nếu Alp có những nét nghĩa gần hơn với từ oaf trong tiếng Anh, chỉ những yêu tinh tai quái và ác ý, hay những chú ngốc làng vẫn bị coi là yêu tinh đánh tráo, thì chữ elf trong tiếng Anh cũng vậy. Với tôi những liên tưởng kiểu nông thôn, hạ tiện loại đó còn ít nguy hại hơn những tưởng tượng văn chương “xinh xẻo”. Trên thực tế người Elf thuộc hệ “thần thoại” trong Chúa tể những chiếc Nhẫn không thể đánh đồng với các truyền thuyết folklore về “fairy”, và như đã nói (trong Phụ lục F) tôi muốn người dịch sẽ dùng dạng cổ nhất có thể của cái tên này, rồi để nó tự tạo ra liên tưởng mới cho những người đọc câu chuyện của tôi. Trong các thứ tiếng Scandinavia có chữ alf.

Tiếng Việt: Tiên (Elf-smith >> Tiên Thợ Rèn, etc.)

Fair Folk. Giống người đẹp đẽ. (Dựa trên cụm từ tiếng Wales Tylwyth teg “the Beautiful Kindred [họ tộc đẹp đẽ]” = Fairy [Tiên]). Biệt hiệu của người Elf. Dịch.

Tiếng Việt: người Mỹ Tộc.

(The) Firstborn. Biệt hiệu chỉ người Elf. Dịch. (“Firstborn”, là vì Elf xuất hiện trên thế giới trước tất cả các “giống dân biết nói” khác, không chỉ Con Người mà cả Dwarf, dù Dwarf từ một nguồn gốc khác. Hobbit tất nhiên được coi là một chủng đặc biệt của con người.)

Tiếng Việt: Lứa Đầu

Evenstar. Biệt hiệu của Arwen Undómiel. Khi xuất hiện trong văn bản, từ này – vốn là cách dịch của Undómiel (bằng tiếng Quenya) – cần được dịch.