So sánh đại lý thương mại và ủy thác thương mại
Điều 155 Luật Thương mại 2005 đã quy định: “Ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận ủy thác thực hiện việc mua bán hàng hóa với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thỏa thuận với bên ủy thác và được nhận thù lao ủy thác”. Show Đại lý thương mại là gì?Điều 166 Luật Thương mại 2005, “Đại lý thương mại là… hoạt động thương mại, theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thỏa thuận việc bên đại lý nhân danh chính mình thực hiện việc mua, bán hàng hóa cho bên giao đại lý hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng để hưởng thù lao”. So sánh hoạt động ủy thác mua bán hàng hoá với đại lý thương mạiĐiểm giống nhau giữa hoạt động ủy thác mua bán hàng hoá với hoạt động đại lý thương mại– Xét về bản chất, cả hai loại đều là loại hợp đồng dịch vụ, vì vậy đối tượng hướng đến giữa các bên khi giao kết là thực hiện một công việc. Vì vậy cho dù có sự xuất hiện của hàng hóa thì ở đây nó cũng không phải là đối tượng của hợp đồng mà chỉ là đối tượng trong hợp đồng mua bán giữa bên nhận giao kết và bên thứ ba. – Cả hai loại giao dịch trên đều là loại hình dịch vụ trung gian thương mại, trong đó bên nhận dịch vụ sẽ thực hiện công việc thay cho bên giao kết để hưởng thù lao. Do vậy quyền sở hữu hàng hóa hay các quyền sở hữu khác vẫn thuộc về bên thuê dịch vụ, bên nhận dịch vụ chỉ thay mặt để giao dịch với bên thứ ba. Tuy nhiên, khác với loại hình đại diện thương nhân, mà bên nhận dịch vụ sẽ nhân danh bên thuê dịch vụ để thực hiện các công việc, cũng như với loại hình môi giới thương mại, mà bên nhận dịch vụ hoàn toàn không tham gia vào quá trình ký kết hợp đồng giữa bên thuê dịch vụ và bên thứ ba, trong cả ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại thì bên nhận dịch vụ đều nhân danh chính mình để thực hiện công việc. Trong cả ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại, bên nhận dịch vụ có thể giao kết dịch vụ trung gian của mình với nhiều bên thuê dịch vụ, trừ trường hợp cụ thể mà pháp luật không cho phép. – Chủ thể nhận giao kết trong cả hai loại đều phải là thương nhân và có tư cách pháp lý độc lập với bên giao kết và bên thứ ba theo quy định của điều 6 Luật Thương mại. Hơn nữa, trong cả ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại đều có sự mua bán hàng hóa nên bên nhận dịch vụ còn phải là thương nhân được phép của Nhà nước kinh doanh các mặt hàng đó. – Về mặt hình thức, cả ủy thác mua bán hàng hóa lẫn đại lý thương mại đều phải được xác lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Điểm khác nhau giữa hoạt động ủy thác mua bán hàng hoá với hoạt động đại lý thương mại
Môi giới thương mại Trên cơ sở so sánh với các hoạt động trung gian thương mại khác, chúng tôi sẽ chỉ ra sự khác biệt giữa hoạt động môi giới thương mại và ba hoạt động trung gian thương mại còn lại. Từ đó giúp doanh nghiệp nắm rõ bản chất của hoạt động môi giới thương mại và lựa chọn loại hình trung gian thương mại phù hợp với nhu cầu kinh doanh của mình. 1. So sánh hoạt động Môi giới thương mại và hoạt động Đại diện cho thương nhân
2. So sánh hoạt động Môi giới thương mại và hoạt động Ủy thác mua bán hàng hóa
Như vậy, điểm khác biệt quan trọng giữa hoạt động môi giới thương mại so với hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa là ở mức độ tham gia vào thực hiện hợp đồng, giao dịch giữa các bên. Trong hoạt động môi giới thương mại, bên môi giới hoàn toàn không tham gia vào việc thực hiện hợp đồng giữa các bên. Ngược lại, trong hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa, bên nhận ủy thác được tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa với bên thứ ba trên danh nghĩa của chính mình. Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa chỉ áp dụng trong lĩnh vực mua bán hàng hóa (không áp dụng đối với dịch vụ). 3. So sánh hoạt động Môi giới thương mại và hoạt động Đại lý thương mại
Tóm lại, so với các hoạt động trung gian thương mại khác, hoạt động môi giới thương mại có đặc điểm khác biệt là chủ thể thực hiện môi giới thương mại hoàn toàn không tham gia vào hợp đồng, giao dịch giữa các bên, không đại diện cho quyền lợi của bên nào. Chính vì không tham gia vào giao dịch giữa các bên nên bên môi giới không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của bên được môi giới, không có quyền được quyết định giá bán, giá cung ứng dịch vụ giữa các bên. Đồng thời, nếu các loại hình hoạt động trung gian thương mại khác bắt buộc phải được thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương thì luật lại quy định hợp đồng môi giới không nhất thiết phải lập thành văn bản. Điều này tạo điều kiện cho các hoạt động môi giới có thể tiến hành nhanh chóng, thuận tiện. Tuy nhiên việc không quy định như vậy cũng có mặt trái, đó là làm phát sinh những vấn đề tiềm ẩn về tranh chấp giữa các bên thực hiện dịch vụ môi giới và bên được môi giới, nhất là đối với những hợp đồng có giá trị lớn. Kết luận: Trên đây là so sánh giữa hoạt động môi giới thương mại với các hoạt động trung gian thương mại khác. Nắm rõ sự khác biệt giữa các hoạt động trung gian thương mại này là cơ sở để chủ thể kinh doanh xác định đúng bản chất mối quan hệ với bên trung gian, đảm bảo việc lựa chọn loại hình trung gian thương mại là phù hợp với nhu cầu kinh doanh của mình. |