Quy định về áp dụng văn bản pháp luật năm 2024

Vừa qua, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua một văn bản quy phạm pháp luật mới, đó là Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng. Pháp lệnh này sẽ có hiệu lực từ ngày 1.9.2022.

Tuy nhiên, một số hành vi vi phạm trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng giống với hành vi vi phạm trong Nghị định 15/2020 của Chính phủ.

Chẳng hạn hành vi đưa tin sai sự thật, theo Pháp lệnh này, tùy mức độ sẽ bị phạt tiền từ 1 - 15 triệu đồng. Riêng luật sư sẽ bị phạt tiền từ 15 - 40 triệu đồng.

Cùng vấn đề đưa tin sai sự thật, Nghị định 15/2020 của Chính phủ cũng quy định cá nhân nào (có thể là luật sư, đương sự…) đưa thông tin giả mạo, sai sự thật lên mạng xã hội, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân thì bị xử phạt 10 - 20 triệu đồng.

Một hành vi T.Ương tự nhau nhưng được quy định ở hai văn bản pháp luật có mức phạt khác nhau, thì việc áp dụng như thế nào để không tùy tiện? Đây là vấn đề đang được nhiều người quan tâm.

Áp dụng văn bản quy phạm pháp có giá trị cao hơn

Trao đổi với Thanh Niên, một số luật sư phân tích: Về nguyên tắc áp dụng văn bản pháp luật, Điều 156 luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định, "trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn".

Như vậy, trong trường hợp trên, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giá trị pháp lý cao hơn Nghị định của Chính phủ, vì vậy, Pháp lệnh sẽ là văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng để xử phạt hành vi vi phạm.

Bên cạnh đó, trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.

Cũng theo chuyên gia, pháp luật Việt Nam cũng còn có một nguyên tắc, đó là "ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước luật chung". Ví dụ, Bộ luật dân sự là luật chung, điều chỉnh các quan hệ dân sự, theo Điều 4 Bộ luật dân sự năm 2015. Trường hợp luật chuyên ngành quy định một số nội dung đặc thù thì áp dụng luật chuyên ngành nhưng trên nguyên tắc "không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định".

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành theo thứ tự từ cao xuống thấp

1. Hiến pháp.

2. Bộ luật, luật (sau đây gọi chung là luật), nghị quyết của Quốc hội.

3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.

5. Nghị định của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban T.Ư Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

6. Quyết định của Thủ T.Ướng Chính phủ.

7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao.

8. Thông T.Ư của Chánh án TAND tối cao; thông T.Ư của Viện trưởng Viện KSND tối cao; thông T.Ư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; quyết định của Tổng Kiểm toán nhà nước.

8a. Thông T.Ư liên tịch giữa Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng Viện KSND tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Không ban hành thông T.Ư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.

9. Nghị quyết của HĐND tỉnh, TP trực thuộc T.Ư (sau đây gọi chung là cấp tỉnh).

10. Quyết định của UBND cấp tỉnh.

11. Văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.

12. Nghị quyết của HĐND huyện, quận, thị xã, TP thuộc tỉnh, TP thuộc TP trực thuộc T.Ư (sau đây gọi chung là cấp huyện).

Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.

2. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.

3. Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.

4. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra, trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.

5. Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp luật trong nước không được cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.”

Từ quy định này, có thể hiểu việc áp dụng văn bản QPPL theo nguyên tắc như sau:

Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Thời điểm có hiệu lực của văn bản được quy định tại Điều 151 của Luật Ban hành văn bản QPPL 2015, cụ thể: thời điểm có hiệu lực của văn bản sẽ được quy định tại văn bản đó nhưng không sớm hơn 45 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước trung ương; không sớm hơn 10 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; không sớm hơn 07 ngày kể từ ngày ký ban hành đối với văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp huyện và cấp xã. Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn thì có thể có hiệu lực kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.

Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.

Thứ hai, các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. Việc xác định thứ bậc văn bản QPPL căn cứ vào Điều 4 Luật Ban hành văn bản QPPL, theo đó, thứ tự văn bản từ cao xuống thấp là: Hiến pháp; Bộ luật, luật, nghị quyết của Quốc hội; Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;…Ví dụ: giữa Luật và Pháp lệnh cùng quy định về một vấn đề nhưng có sự khác nhau thì ưu tiên áp dụng Luật.

Trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.

Thứ ba, trường hợp văn bản quy phạm pháp luật mới không quy định trách nhiệm pháp lý hoặc quy định trách nhiệm pháp lý nhẹ hơn đối với hành vi xảy ra, trước ngày văn bản có hiệu lực thì áp dụng văn bản mới.

Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.

Quá trình thực hiện áp dụng văn bản QPPL cho thấy, Luật Ban hành văn bản QPPL 2015 mới quy định về nguyên tắc áp dụng văn bản trong trường hợp: các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề và các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề. Thực tiễn có trường hợp văn bản QPPL có hiệu lực pháp lý ngang hàng nhau nhưng do hai đơn vị ban hành có sự khác nhau thì ưu tiên áp dụng văn bản QPPL nào lại chưa được quy định. Ví dụ:

Điểm e Khoản 8 Điều 2 Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 03 tháng 09 năm 2015 của Liên bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu kinh tế cửa khẩu quy định trách nhiệm của Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh trong việc: Tiếp nhận khai trình việc sử dụng lao động, báo cáo tình hình thay đổi về lao động; nhận thông báo về việc tổ chức làm thêm từ 200 giờ đến 300 giờ trong một năm của doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu kinh tế theo ủy quyền của Sở Lao động Thương binh và Xã hội.

Tuy nhiên, tại Điểm e Khoản 2 Điều 7 Thông tư số 32/2014/TT-BLĐTBXH ngày 01 tháng 12 năm 2014 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội hướng dẫn ủy quyền thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế và khu công nghệ cao lại quy định Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ủy quyền cho Ban Quản lý khu công nghiệp thực hiện: Nhận thông báo của doanh nghiệp trong khu công nghiệp việc tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm.

Như vậy, hai thông tư cùng quy định về cùng một vấn đề nhưng do hai đơn vị khác nhau ban hành. Trường hợp này chưa có quy định về nguyên tắc áp dụng pháp luật, do đó, thiết nghĩ cần phải có quy định cụ thể hơn để tạo thuận lợi trong quá trình áp dụng các văn bản QPPL./.

Văn bản pháp luật được áp dụng khi nào?

- Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.

Định nghĩa văn bản áp dụng pháp luật là gì?

Đối với văn bản áp dụng pháp luật là văn bản chứa đựng các quy tắc xử sự cá biệt, do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền ban hành, được áp dụng một lần trong đời sống và bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế Nhà nước.

Tại sao phải áp dụng pháp luật?

* Áp dụng pháp luật có vai trò bảo đảm quyền tự do, dân chủ của công dân; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; gìn giữ "kỷ cương, phép nước" trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Ai quy định văn bản quy phạm pháp luật?

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, ...