Phương pháp hệ thống Nguyễn Ngọc Khá

Forums > Thư Viện Tổng Hợp > Tủ Sách Giáo Dục Đại Học > Đại Học Sư Phạm (Toàn Quốc) >

Tags:

(You must log in or sign up to reply here.)

Phạm trù “hệ thống” trong lịch sử triết học

Nguyễn Ngọc Khá

05:37 CH @ Thứ Sáu - 24 Tháng Mười Một, 2006

Trong giai đoạn hiện nay, khi cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, thì việc mở rộng thông tin và đa dạng hoá các tri thức khoa học đã mang lại một bức tranh chung hết sức đa dạng và phức tạp về thế giới. Chính vì vậy, việc xem xét các khách thể với tính cách là một hệ thống ngày càng trở nên cần thiết và bức bách. Khái niệm "hệ thống” đã được các nhà triết học trong lịch sử quan tâm xem xét, song chỉ đến khi triết học Mác ra đời mới mang lại cho nó một quanniệm thật sự khoa học. Đặc biệt, hiện nay "hệ thống” được coi như một phạm trù triết học có nội dung phong phú, mang ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Khái niệm “hệ thống" đã có tất cả các hệ thống triết học cũng như các hệ thống tự nhiên. Nó xuất hiện ngay từ triết học thời cổ đại. Chính vì các sự vật, hiện tượng trong thế giới có sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau nên đã hình thành khái niệm “tổng thể” một tập hợp nhất định. Cái tổng thể ấy được cụ thể hóa trong triết học Arixtốt với tính cách là giống, loại. Ông viết: “… các loại kể cả giống là cái dùng để quy cái tập hợp thành một thực tại”. Arixốt thể hiện cái tổng thể ấy bằng một phạm trù - cái toàn thể. Theo ông “cái toàn toàn thể là cái mà ở đó không thể thiếu bất kỳ một bộ phận nào, mà trong thành phần của nó thì mỗi bộ phận lại là cái toàn thể bao gồm các sự vật và hình thành nên một thể thống nhất”.

Đối với Arixtôt cái toàn thể là cái được cấu thành từ các bộ phân, là cái có điểm đầu, điểm kết thúc và sự hoàn thiện của nó bởi vì cái toàn thể, cái kết thúc và cái hoàn thiện là đồng nhất hoặc tương đương với nhau.

Cái bộ phận được hiểu là cái tham gia vào thành phần cấu thành nên sự vật (cái toàn thể). Trong mối quan hệ phân chia giống loại thì loại đóng vai trò là bộ phận hoặc giống là bộ phận của loại.

Arixtốt cũng như các nhà trết học cổ đại nói chung chưa đưa ra được khái niệm "hệ thống” để chỉ cái toàn thể, mặc dù họ đã tiếp cận trên khái niệm "hệ thống" ở những mức độ khác nhau và dùng khái niệm đó để chỉ tổng số các tri thức.

Trong những thế kỷ tiếp theo, các nhà triết học và khoa học tự nhiên đã sử dụng khái niệm “hệ thống" để chỉ tổng số các tri thức và tổng số các vật thể của thế giới hiện thực. Chẳng hạn, Hônbách khẳng định “thế giới khách quan tồn tại với tính cách là hệ thống của các hệ thống” nhưng ông đã đồng nhất hệ thống với cái toàn thể, coicái toàn thể là tổng số giản đơn của các bộ phận cấu thành.

Ở thời kỳ Khai sáng, các nhà triết học đã cố gắng tìm hiểu nội dung và ýnghĩa khoa học của khái niệm "hệ thống” tiêu biểu là Côngđilắc. Ông đã gắn khái niệm “hệ thống” với khoa học và nghệ thuật. Ông viết: “Mỗi hệ thống không có gì khác ngoài sự sắp đặt các bộ phận khác nhau của nghệ thuật hay của khoa học nào đó trong một trật tựnhất định, trong đó tất cả chúng đều ràng buộc lẫn nhau và bộ phận này được làm sáng tỏ bằng bộ phận kia". Vấn đề cốt lõi ở đây là cần phải xác định tồn tại được hình thành như thế nào, nó có mối quan bệ gì và nằm trong tổ chức nào. Tuy có tiến bộ hơn so với quan niệm ở thời cổ đại, song những quan niệm ấy vẫn nằm trong khuôn khổ của cách tiếp cận siêu hình về hệ thống. Mặc dù vậy, việc giải thích hệ thống như một trật tự, như là sự thống nhất của tồn tại ở phương diện bản thể luận được coi là phôi thai của quan điểm duy vật đúng đắn về hệ thống sau này.

Cùng với việc khoa học tự nhiên ngày càng đi sâu vào cấu trúc của thế giới vật chất và mở rộng phạm vi nghiên cứu của nó, trong triết học cũng xuất hiện một quan niệm cho rằng, vũ trụ là một hệ thống biến đổi và phát triển không ngừng, tuân theo các quy luật vôn có của nó. Các tác phẩm "Lịch sử tự nhiên đại cương và học thuyết về bầu trời" và Giả thuyết về nguồn gốc vũ trụ của I.Cantơ là những bước đi đầu tiên chứng minh cho khuynh hướng đó. I.Cantơ viết: "Đối với hệ thống, tôi hiểu đó là các tri thức đa dạng được kết hợp lại với nhau bằng một tư tưởng". Tư tưởng ấy, theo I.Cantơ, nhất là đặc trưng cơ bản của mọi hệ thống khác, ông còn chỉ ra rằng, cấu tạo của hệ thống vật chất không chỉ chịu sự tác động của sức hút, mà còn cả sức đẩy, do vậy hệ thống mới vận động và phát triển.Tính chất hai mặt và mâu thuẫn ấy (dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm) đã trở thành tiêu chuẩn cơ bản trong lý luận nhận thức của triết học I.Cantơ. Song, có thể nói, với quan niệm lần đầu tiên I.Cantơ đã giáng một đòn mạnh mẽ vào tư duy siêu hình về vấn đề hệ thống, bởi vì tư duy siêu hình chỉ xem xét hệ thống trong trạng thái tĩnh, tách rời mâu thuẫn, tách rời sự vận động, phát triển. Cũng từ đây, triết học bắt đầu đặt ra các vấn đề môi liên hệ qua lại, mâu thuẫn, vận động, phát triển là những nhân tố rất quan trọng nhằm khám phá tính chất biện chứng của hệ thống.

Tư tưởng biện chứng về “hệ thống” được phát triển và hoàn thiện hơn trong triết học Hêgen. "Hệ thống" với tính cách là một phạm trù triết học chưa có ở Hêgen, nhưng tất cả mọi đối tượng mà ông đề cập đến đều thể hiện là hệ thống tự phát triển và tất cả đều được xuyên suốt bởi tư tưởng phát triển. Ý niệm, Hêgen viết, tự nó là cụ thể, là phát triển, là một hệ thống hữu cơ, là một chỉnh thể chứa đựng tập hợp các nấc thang và yếu tố. Với tính cách là các nấc thang, yếu tố, ý niệm trước hết là hệ thống, nói cách khác, tất cả đều mang tính hệ thống, thế giới là hệ thống của các hệ thống. Hêgen khẳng định "cần phải nghiên cứu giới tự nhiên như một hệ thống các nấc thang,mà nấc thang này được suy diễn từ nấc thang khác, song ở đây, không có quá trình sản sinh vật lý tự nhiên, mà chỉ là sự sản sinh trong lòng ý niệm và ý niệm ấy tạo ra cơ sở của giới tự nhiên".

Như vậy, Hêgen đã khẳng định tính chất hệ thống của hiện thực, nhưng ông lại coi hiện thực ấy chỉ là các ý niệm, là hệ thống các nấc thang khác nhau của những ý niệm vận động. Về thực chất, Hêgen đã phát triển khái niệm "hệ thống" chỉ với tính cách là khái niệm thuần tuý, nếu chúng ta bổ sung cho khái niệm ấy thì nó sẽ đứng trong hàng ngũ các phạm trù triết học. Mặc dù Hêgen không chú ý đến việc định nghĩa khái niệm "hệ thống", chỉ ra vị trí, vai trò của nó trong mối quan hệ với các phạm trù khác của triết học, nhưng ông đòi hỏi quá trình nhận thức của con người củng phải mang tính hệ thống. Hêgen viết: "Bất kỳ sự nghiên cứu khoa học nào cũng đều mang tính hệ thống, bởivì hình thức chân lý chỉ có thể là hệ thống các chân lý khoa học".

Phép biện chứng của Hêgen là phép biện chứng của hệ thống các ý niệm, mặc dù đó là "phép biện chứng lộn ngược", nhưng đúng về phương pháp. Nó đòi hỏi logic của mọi nghiên cứu phải mang tính hệ thống, "triết lý mà không có tính hệ thống thì không thể chứa đựng một tính khoa học nào". Nếu bỏ qua bức màn duy tâm, thần bí, thì có thể nói Hêgen đã để lại một kho tàng các giá trị tinh thần vô cùng quý báu cho nhân loại. Một trong những cống hiến của Hêgen là phương pháp nghiên cứu các hệ thống đã được C Mác và F.Engen tiếp thu, cái tạo và phát triển theo lập trường duy vật của mình.

Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác không để lại cho chúng ta những định nghĩa trực tiếp về "hệ thống", nhưng ở mọi chỗtrong các tác phẩm của các ông, chúng ta đều thấy rõ tư tưởng “hệ thống" với tư cách là một phạm trù triết học.

C. Mác là người đầu tiên đứng trên lập trường duy vật biện chứng để nghiên cứu một trong các hệ thống vật chất phức tạp - xã hội loài người. Theo ông, xã hội là một hệ thống tự phát triển, trải qua các giai đoạn khác nhau và các giai do đó được gọi là các hình thái kinh tế - xã hội. C.Mác đã nghiên cứu hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa như một hệ thống rất phức tạp, được hình thành từ các yếu tố và hệ thống con trong sự tác động qua lại của chúng, với những mâu thuẫn nội tại đa dạng và sâu sắc. Trong các tác phẩm chuẩn bị cho bộ "Tư bản", C.Mác đã chỉ ra rằng, kết cấu, hình thức nội tại, nghĩa là tính hệ thống là một thuộc tính đặc trưng cho tất cả mọi sự vật, hiện tượng, quá trình của giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội. Ông viết: "Xã hội ngày nay hoàn toàn không phải là một khối kết tinh vững chắc, mà là một cơ thể có khả năng biến đổi và luôn luôn ở trong quá trình biến đổi". Hơn thế nữa, C.Mác đã đưa ra tư tưởng về “hệ thống" với tính cách là một phạm trù triết học. Trong "Bản thảo kinh tế - triết học 1857 - 1859", C.Mác viết: "...bản thân hệ thống hữu cơ ấy với tính cách là một tổng thể cũng có những tiền đề của mình và sự phát triển của nó nhằm trở thành một chỉnh thể là ở chỗ, nó bắt tất cả các yếu tố xã hội phục tùng mình hoặc từ xã hội đó còn tạo ra những cơ quan mà nó chưa có. Bằng con đường đó, trong quá trình phát triển lịch sử, hệ thống biến thành cái chỉnh thể. Sự phát triển hệ thống thành chỉnh thể như thế sẽ tạo ra yếu tố của nó, tạo ra hệ thống, quá trình, sự phát triển của nó".

Điều đó cho thấy, C.Mác đã xác định dấu hiệu biện chứng khách quan của hệ thống, vạch ra động lực bên trong của sự vận động, phát triển, chỉ ra những tiền đề, quy luật của sự phát triển khách quan ấy. C.Mác viết tiếp: "Về mặt lịch sử, mỗi hệ thống cụ thể được quy định bằng nhưng hệ thống khác, chúng thiết lập nên cơ sở của sự phát triển, rằng mỗi yếu tố của hệ thống phụ thuộc vào những yếu tố khác, vào cái chỉnh thể được xác lập, nghĩa là phụ thuộc vào hệ thống chỉnh thể, còn mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố được xem như động lực bên trong của sự phát triển của toàn bộ hệ thống".

Từ những luận điểm trên đây, chúng ta có thể nói rằng, tính hệ thống theo quan điểm của C.Mác, là một yếu tố tất nhiên của sự phát triển biện chứng. Vấn đề hệ thông cũng được thể hiện rõ nét trong quan điểm của F. Engen. Trong tác phẩm thiện chứng của tự nhiên", ông đã coi giới tự nhiên là một hệ thông và chính luận điểm ấy đã trở thành cơ sở để xác định khái niệm "hệ thống". F.Engen viết: "Tất cả giới tự nhiên mà chúng ta có thể nghiên cứu được là một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít vớinhau, nhưng ởđây, chúng ta hiện vật thể là tất cả những thực tại vật chất, từ tinh tú đến nguyên tử, cho đến cả những hạt ête, nếu chúng ta thừa nhận sự tồn tại của hạt ête". Như vậy, bản chất của hệ thống, theo F.Engen, trước tiên là mối liên hệ qua lại của các vật thể trong toàn bộ vũ trụ từ vi mô đến vĩ mô. Khi xác định đặc trưng của hệ thống, ông đã nêu lên hai đấu hiệu cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của hệ thống: Một là, mối liên hệ qua lại giữa các vật thể, hai là, tính giới hạn của các vật thể đó. Chính các dấu hiệu đặc trưng ấy làm cho hệ thống tồn tại với tính cách là một chỉnh thể thông nhất, có tính xác định về chất. Đồng thời F. Engen còn đưa ra chủ trương kết hợp vấn đề kết cấu hệ thống của thế giới vật chất và sự phản ánh của nó vào trong bộ não con người với phép biện chứng duy vật. Ông khẳng định: " Việc các vật thể ấy đều có liên hệ qua lại với nhau đã có nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau, và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận động".

Từ đây, có thể nói rằng việc tiếp nhận quan điểm về tính hệ thống của thế giới không có gì khác hơn là thừa nhận tính biện chứng của chúng, thừa nhận những yếu tố, những năng lực nội tại, những động lực và cội nguồn của sự tự vận động của bản thân hệ thống.

Tiếp tục công việc của C.Mác và F.Engen, Lênin đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản với tính cách là một hệ thống ở giai đoạn phát triển mới của nó là chủ nghĩa đế quốc. Khi khái quát bản chất của học thuyết Mác về quan hệ sản xuất, Lênin viết: “Hệ thống quan hệ sản xuất, theo lý luận của Mác đó là một cơ thể xã hội riêng biệt, có những quy luật riêng về sự ra đời của nó, về hoạt động của nó và bước chuyển của nó lên một hình thức cao hơn tức là biên thành một cơ thể xã hội khác”.

Như vậy, "hệ thống", cho dù ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng có quy luật phát triển khách quan của nó. Hệ thống như một cơ thể có cấu trúc và tính chỉnh thể nhất định và đặc biệt biểu hiện rất phức tạp trong lĩnh vực đời sông xã hội. Vì vậy, để nghiên cứubản chất của các hệ thống xã hội, Lênin yêu cầu phải xuất phát từ phương diện lịch sử, quá trình lịch sử và bản thân quá trình nghiên cứu cũng thể hiện là một hệ thống chỉnh thể các tri thức.

Tóm lại, khái niệm "hệ thống" đã được nghiên cứu trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử triết học. Sự phát triển của tư tưởng về hệ thống gắn liền với sự phát triển của thế giới quan triết học, phù hợp với sự tiến bộ của khoa học và thực tiễn xã hội. Các nhà triết học trước C.Mác đã đạt được những kết quả nhất định trong việc nghiên cứu vấn để hệ thống, xác định nội dung, ý nghĩa của khái niệm "hệ thống". Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, song nó góp phần quan trọng vào việc làm phong phú đối tượng nghiên cứu của triết học, làm cho tư duy triết học ngày càng phát triển vời một trình độ cao hơn. Trên cơ sở kế thừa có phê phán những gì mà lịch sử đã tạo ra, C.Mác, F.Engen và Lênin đã phát triển khái niệm "hệ thống” lên một đỉnh cao. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin về "hệ thống" đã tạo ra một cơ sở khoa học vững vàng cho sự nghiên cứu và phát triển vấn đề hệ thống sau này. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật ở thế kỷ XX và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, nhiều nhà triết học và khoa học ở các lĩnh vực khác nhau đã tập trung nghiên cứu các khách thể với tính cách là một hệ thống và thậm chí là các phức hợp hệ thống nhằm tìm ra bản chất và quy luật vận động, phát triển của chúng. Khái niệm "hệ thống" đang được sử dụng rất rộng rãi và nó đã trở thành biểu tượng của tính khoa học và tính logic để tiếp nhận chân lý. Hơn thế nữa, khái niệm "hệ thống" đã trở thành một phạm trù triết học mang ýnghĩa phương pháp luận đó là việc áp dụng phương pháp hệ thống mà hiện đã trở thành phổ biến trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Nguồn:Tạp chí Triết học

LinkedInPinterestCập nhật lúc:04:14 CH @ 06/02/2009