Môi trường oxi hóa đối với thủy tinh kiềm

Ngày 03/01/2019, Chi cục Chăn nuôi và Thú y đã tiến hành quan trắc môi trường đợt 01 năm 2019 tại 20 điểm đầu nguồn cấp nước cho các vùng nuôi tôm nước lợ trọng điểm của 09 huyện, thành phố trong tỉnh và 03 điểm tại vùng nuôi cá lồng bè tập trung của xã Hòn Nghệ, huyện Kiên Lương. Kết quả phân tích các chỉ tiêu chất lượng nước như sau (có Phụ lục chi tiết kèm theo):

1. Vùng U Minh Thượng

Nhiệt độ: 24 - 25oC, pH: 7,0 - 8,3, độ mặn: 0 - 14‰, độ trong: 10 - 40 cm, độ kiềm: 17,9 - 143,2 mg/l, oxy hòa tan (DO): 2,5 - 5,5 mg/l, ammonia: 0,003 - 0,03 mg/l, tiêu hao oxy sinh học (BOD5): 2,219 - 4,454 mg/l. Phần lớn các chỉ tiêu hóa, lý môi trường nước tại các điểm quan trắc đều nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép;

Độ mặn trên các kênh cấp nước của vùng giảm nhẹ so với đợt quan trắc trước do thời tiết có mưa nhiều, có 6/10 điểm có độ mặn thấp (từ 0 - 4‰), các điểm quan trắc: Vàm Thứ 6 Biển (An Biên), Vàm Xẻo Nhàu (An Minh), kênh Ranh Hạt, kênh 80 Thước (Vĩnh Thuận) có độ mặn đạt 5 - 14‰ thích hợp cho tôm nuôi phát triển;

Độ kiềm tăng so với đợt quan trắc trước, có 2/10 điểm có độ kiềm thấp (17,9 - 53,7 mg/l), có 4/10 điểm có độ trong thấp (10 - 15 cm), có 1/10 điểm có hàm lượng oxy hòa tan thấp,không thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi nước lợ.

Nitrite dao động từ 0 - 0,5 mg/l, vượt ngưỡng giới hạn cho phép đối với động vật thủy sản nuôi từ 2 - 10 lần tại 9/10 điểm quan trắc của vùng. Phosphate dao động từ 0,1 - 0,5 mg/l, vượt ngưỡng giới hạn cho phép từ 2,5 - 5 lần tại 6/10 điểm quan trắc, không thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi.

2. Vùng Tây sông Hậu

Nhiệt độ: 23oC, độ trong: 32 - 34 cm, độ kiềm: 71,6 mg/l, hàm lượng oxy hòa tan (DO): 3,5 mg/l, nitrite: 0,005 - 0,02 mg/l, ammonia: 0 mg/l, tiêu hao oxy sinh học: 2,123 - 2,235 mg/l, hàm lượng phosphate 0,2 - 0,25 mg/l trong ngưỡng giới hạn cho phép đối với sự sinh trưởng và phát triển của tôm nuôi;

Độ mặn vẫn duy trì ở mức 0‰; pH tồn tại ở mức rất thấp, chỉ 6,7 - 6,8 không thích hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của động vật thủy sản.

3. Vùng Tứ giác Long Xuyên

Nhiệt độ: 25 - 26oC, độ mặn: 5 - 25‰, pH: 6,8 - 8,1, độ trong: 30 - 75 cm, oxy hòa tan (DO): 4,0 - 5,0 mg/l, ammonia: 0 - 0,03 mg/l, phosphate: 0 - 0,25 mg/l, tiêu hao oxy sinh học (BOD5): 1,004 - 3,174 mg/l. Hầu hết thông số đo các chỉ tiêu lý hóa tại các điểm quan trắc nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép và thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của tôm nước lợ;

Tuy nhiên, có 2/7 điểm có độ trong thấp, 4/7 điểm có hàm lượng nitrite vượt ngưỡng giới hạn cho phép và không thích hợp cho đời sống của tôm nuôi nước lợ.

Độ mặn (5 - 25‰) tăng so với đợt quan trắc trước tại tất cả các điểm quan của vùng và nằm trong ngưỡng thích hợp cho đời sống của tôm nuôi nước lợ.

Độ kiềm (35,8 - 107,4 mg/l) giảm so với đợt quan trắc trước, có 5/7 điểm quan trắc có độ kiềm rất thấp (35,8 - 53,7 mg/l), dưới ngưỡng thích hợp cho tôm nuôi phát triển.

4. Vùng nuôi cá lồng bè tập trung của xã Hòn Nghệ - Kiên Lương

Nhiệt độ: 27oC, độ mặn: 18,5‰ không tăng so với đợt quan quan trắc trước, oxy hòa tan (DO): 8,0 mg/l, hàm lượng NH4+: 0 mg/l, hàm lượng nitrite: 0 mg/l, phosphate: 0 mg/l, hầu hếtcác chỉ tiêu quan trắc nằm trong ngưỡng giới hạn cho phép và thích hợp cho cá nuôi lồng bè phát triển.

Do ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 01 nên ở Hòn Nghệ biển động mạnh, tàu đò không được phép hoạt động nên mẫu nước từ Hòn Nghệ không gửi vào đất liền được, vì vậy không có kết quả kiểm tra mật độ vi khuẩn Vibrio.sp, Vibrio parahaemolyticus của các điểm quan trắc tại vùng này.

5. Nhận định và khuyến cáo chung

* Nhận định:

- Tại phần lớn các điểm quan trắc vẫn còn tồn tại nhiều bất lợi, cần phải lưu ý, xử lý như: độ mặn thấp (9/23 điểm), pH thấp (4/20 điểm), độ kiềm thấp (7/20 điểm), hàm lượng nitrite cao vượt ngưỡng (13/23 điểm), hàm lượng phosphate cao vượt ngưỡng (7/23 điểm).

- Mật độ Vibrio tổng số giảm nhẹ so với đợt quan trắc trước, vượt ngưỡng giới hạn cho phép đối với đời sống của động vật thủy sinh (> 1.000 CFU/ml) tại 4/20 điểm quan trắc bao gồm: Vàm Thứ 6 Bển (An Biên), cống Vạn Thanh, cống Vàm Rầy (Hòn Đất), cống Tam Bản (Kiên Lương).

- Vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus vẫn duy trì sự hiện diện trong 15/20 kênh cấp nước được quan trắc, mật độ giảm nhiều so với đợt quan trắc trước, mật độ cao nhất là 1.395 CFU/ml tại cống Vàm Rầy (Hòn Đất).

* Giám sát dịch bệnh thụ động:

Từ ngày 22/12 - 04/01/2019 không ghi nhận thêm ổ dịch bệnh hay thiệt hại trên tôm nuôi nước lợ và cá biển nuôi lồng bè.

* Khuyến cáo:

Đối với nuôi tôm nước lợ:

Để thuận lợi cho tôm nuôi nước mặn lợ phát triển, hạn chế dịch bệnh giúp cho vụ tôm năm 2019 đạt năng suất, sản lượng cao, người nuôi tôm cần lưu ý thực hiện tốt một số khuyến cáo như sau:

- Căn cứ Thông báo số 226/TB-SNNPTNT ngày 14/12/2018 của Sở Nông nghiệp và PTNT về thông báo khung lịch thời vụ thả giống tôm nước lợ năm 2019 và thông báo lịch thời vụ cụ thể của từng địa phương, đồng thời theo dõi kết quả quan trắc, cảnh báo môi trường của Chi cục Chăn nuôi và Thú y Kiên Giang, tình hình thời tiết, thủy triều và chất lượng nước để lấy nước có chất lượng tốt vào ao.

- Cần bố trí ao chứa, lắng để dự trữ nước và xử lý diệt khuẩn thật kỹ trước khi đưa vào ao nuôi, duy trì mực nước trong ao thích hợp với từng hình thức nuôi để hạn chế sự biến động đột ngột của các yếu tố môi trường gây sốc cho tôm nuôi.

- Đối với những vùng nuôi có mật độ vi khuẩn Vibrio tổng số, Vibrio parahaemolyticus ở trên các kênh cấp nước cao, sau khi lấy nước vào ao chứa, lắng cần xử lý diệt khuẩn thật kỹ bằng các loại hóa chất được phép lưu hành trước khi cấp vào ao nuôi.

- Lựa chọn con giống khỏe mạnh, đã qua kiểm dịch, nên mua con giống của những cơ sở sản xuất có uy tín; ngoài việc xét nghiệm các bệnh nguy hiểm do virus cần phải kiểm tra thêm vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus nên áp dụng các biện pháp kiểm tra nhanh chất lượng tôm giống như: sốc formol, sốc nước ngọt trước khi thả. (Sốc formol bằng cách cho tôm giống vào dung dịch formol nồng độ 100-200 ppm, trong 30 giây đến 01 phút để loại bỏ bớt những con mang bệnh, con yếu trước khi thả giống). Năm 2019 Chi cục Chăn nuôi và Thú y có hỗ trợ xét nghiệm bệnh tôm giống miễn phí cho các hộ dân nuôi theo hình thức tôm - lúa, quảng canh, quảng canh cải tiến; các hộ dân có nhu cầu liên hệ với Trạm Chăn nuôi và Thú y địa phương hoặc Trạm Chẩn đoán xét nghiệm tại số 729 Nguyễn Trung Trực, P. An Hòa, Tp. Rạch Giá, Kiên Giang để được hỗ trợ.

- Theo dõi độ mặn trong ao trước khi thả, báo cho trại sản xuất giống để thuần hóa độ mặn của tôm giống cho thích hợp nhằm hạn chế hao hụt sau khi thả.

- Do điều kiện thời tiết và chất lượng nước ở vùng Tứ giác Long Xuyên đã có sự cải thiện nhiều và thích hợp cho sự sinh trưởng, phát triển của tôm nuôi nước lợ do đó các công ty, cơ sở, hộ nuôi tôm thâm canh ở vùng này đã tiến hành xuống giống, thả nuôi mới từ cuối tháng 11/2018. Hiện nay, tôm nuôi đang trong giai đoạn từ 10 - 45 ngày tuổi là giai đoạn rất mẫn cảm với bệnh do đó người nuôi cần phải thực hiện tốt một số công tác sau:

+ Thường xuyên theo dõi tình hình sức khỏe của tôm, kiểm tra các yếu tố môi trường để kịp thời điều chỉnh nếu cần và khi phát hiện tôm nuôi bị bệnh hoặc biểu hiện bất thường nên báo ngay cho cán bộ thú y địa phương, các hộ nuôi xung quanh, tuyệt đối không được xả nước, tôm của ao nuôi bị bệnh ra ngoài môi trường nếu chưa qua xử lý để tránh lây lan trên diện rộng.

+ Độ kiềm, độ pH và nitrit ở những điểm quan trắc ngoài ngưỡng thích hợp phải được quan tâm xử lý tốt để có giá trị thích hợp là: Độ kiềm từ 90 - 130 mg/l đối với tôm sú và 100 - 150 mg/l đối với tôm chân trắng; độ pH thích hợp cho tôm nuôi phát triển là 7,5 - 8,5 và biến thiên pH trong ngày không quá 0,5; hàm lượng nitrite phải <0,05 mg/l.

Đối với các hộ nuôi cá lồng bè:

Để chủ động trong công tác phòng, chống dịch bênh trên cá nuôi lồng bè, Chi cục Chăn nuôi và Thú y hướng dẫn một số biện pháp như sau:

- Các địa phương có quy hoạch nuôi cá lồng bè ven biển, đảo cần thực hiện đúng quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt về vị trí đặt lồng, số lượng lồng, bảo vệ môi trường khu vực nuôi, ...

- Hướng dẫn người nuôi phải giám sát chặt chẽ tình hình môi trường nước vùng nuôi, thường xuyên theo dõi sức khỏe của cá, phân công người trực canh bè 24/24 giờ để kịp thời phát hiện các hiện tượng bất thường của môi trường nước và đưa ra giải pháp ừng phó thích hợp nhằm hạn chế thiệt hại.

- Hướng dẫn người nuôi tập trung thực hiện tốt quy trình phòng bệnh tổng hợp đã được cơ quan chuyên môn hướng dẫn, tập huấn:

+ Chọn con giống có nguồn gốc rõ ràng, đã được kiểm dịch, kích cỡ đồng đều, cá khỏe mạnh, không bị sây sất. Thức ăn là cá mồi thì phải tươi, rửa cá bằng nước ngọt 2-3 lần trước khi cho cá ăn để loại bỏ các mầm bệnh. Nên sử dụng thức ăn viên dành cho cá để thuận tiện cho việc bổ sung vitamin, khoáng vi lượng để nâng cao sức đề kháng cho cá.

+ Thường xuyên vệ sinh lưới lồng, vùng nuôi để loại bỏ các chất thải, sinh vật bám, tăng lưu lượng trao đổi nước và giảm mật độ vi khuẩn trong lồng;

+ Định kỳ 5-7 ngày tắm cá bằng nước ngọt hoặc nước ngọt có pha formol với nồng độ 200ppm trong thời gian 20 - 30 phút có sục khí liên tục để phòng các bệnh do ký sinh trùng, vi khuẩn cho cá. Thao tác nhẹ nhàng, hạn chế gây ra các sây sát do tác động cơ học;

+ Khi phát hiện cá nuôi bị bệnh, chết hay môi trường nước của vùng nuôi có hiện tượng bất thường nên báo ngay cho UBND xã, Trạm chăn nuôi và Thú y địa phương để được hướng dẫn các biện pháp ứng phó kịp thời nhằm hạn chế thấp nhất ảnh hưởng, thiệt hại.

* Lưu ý: những ngày tới nước lớn sẽ kéo dài từ ngày 05/01/2019 đến ngày 09/01/2019, mực nước cao nhất là 1,3 m, xuất hiện từ 01 giờ 30 phút đến 05 giờ 20 phút tùy theo ngày và từng vùng nuôi. Người nuôi tôm có thể chủ động lấy nước vào ao lắng, xử lý trước khi cấp nước mới vào ao nuôi tôm.

Trên đây là kết quả quan trắc môi trường đợt 01 - 2019, Chi cục Chăn nuôi và Thú y đề nghị các đơn vị liên quan có biện pháp phù hợp hỗ trợ thông báo, thông tin rộng đến các hộ nuôi tôm biết để có biện pháp xử lý thích hợp, chủ động trong sản xuất.

Cần trao đổi thêm thông tin liên hệ Phòng Quản lý dịch bệnh - Chi cục Chăn nuôi và Thú y, điện thoại 0297.800.115.