Moderately differentiated adenocarcinoma là gì

SCC hay còn được gọi là SCCA [Squamous Cell Carcinoma Antigen] là một glycoprotein, có nhiều ở các mô vảy. Nồng độ SCC tăng lên khi có ung thư ở các tổ chức mô này. Xét nghiệm định lượng SCC được thực hiện bằng phương pháp định lượng miễn dịch không cạnh tranh pha rắn [solid-phase, non-competitive immunoassay], dựa trên kỹ thuật sandwich trực tiếp. Kỹ thuật được thực hiện trên máy xét nghiệm tự động thế hệ mới tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108.


1. Chỉ định
     Xét nghiệm định lượng dấu ấn ung thư SCC huyết tương được chỉ định để chẩn đoán, theo dõi sự tiến triển và đáp ứng đối với điều trị các ung thư tế bào vẩy nguyên phát và tái phát, gồm:

     - Ung thư cổ tử cung.

     - Ung thư phổi.

     - Ung thư thực quản.

     - Ung thư vùng đầu, cổ.

     - Ung thư cơ quan sinh dục và tiết niệu 

     - Ung thư da.  
2. Khoảng tham chiếu
     Giá trị bình thường của SCC huyết tương hoặc huyết thanh người khỏe mạnh là 0-3 ng/mL.

3. Ý nghĩa lâm sàng

     Nồng độ SCC huyết tương có thể tăng trong các trường hợp sau:

- Ung thư cổ tử cung: Nồng độ SCC tăng trong 45-83% số bệnh nhân ung thư cổ tử cung tế bào vảy [servical squamous cell carcinoma] và ở 66-84% ung thư cổ tử cung tế bào vảy tái phát. Nồng độ SCC cũng tăng ở 56% số bệnh nhân ung thư cổ tử cung tế bào vảy tuyến [cervical adenosquamous carcinoma] và 0-23% ung thư cổ tử cung tế bào tuyến [cervical adenocarcinoma]. Sự tăng nồng độ SCC tỷ lệ với mức độ nặng của ung thư cổ tử cung tế bào vảy. Sau phẫu thuật kết hợp xạ trị, nồng độ SCC huyết tương trở lại bình thường trong khoảng 3 ngày [half-life của SCC là >24 giờ]. Sự thay đổi nồng độ SCC cũng tỷ lệ với tiến trình của bệnh. Nồng độ SCC có liên quan đến sự tái phát khối u và tiên lượng của bệnh. Các bệnh nhân ung thư có SCC tăng trở lại sau phẫu thuật 2-6 tuần có tỷ lệ tái phát 92%. So với các dấu ấn ung thư khác, trong ung thư cổ tử cung tế bào vảy, SCC có độ nhạy [70-74%] cao hơn CEA [31-34%] và CA125 [35%].

- Các ung thư cơ quan sinh dục, tiết niệu: Độ nhạy lâm sàng của SCC ở ung thư vú là 0-10%, ở ung thư niêm mạc tử cung là 8-30%, ở ung thư tử cung 30%, ở ung thư buồng trứng là 4-20%, ở ung thư âm hộ là 19-42% và ở ung thư âm đạo là 17%. Nồng độ SCC huyết tương tăng ở 45% ung thư dương vật, cũng có thể tăng ở ung thư niệu đạo.

- Ung thư phổi: Tần suất tăng nồng độ SCC huyết tương cao nhất gặp ở ung thư phổi tế bào vảy là 39-78%, ở ung thư phổi tế bào không nhỏ là 33-61%, ở ung thư phổi tế bào lớn là 18%, ở ung thư phổi tế bào nhỏ là 4-18 % và ở ung thư tế bào tuyến [adenocarcinoma] là 15-42%. Có sự tương quan giữa nồng độ SCC huyết tương và mức độ nặng của ung thư phổi: độ nhạy lâm sàng của SCC ở giai đoạn I là 27-53%, giai đoạn II là 31-72%, giai đoạn III là 60-88% và giai đoạn IV là 71-100%. Cũng có sự tương quan giữa nồng độ SCC và tiến trình bệnh: sau khi phẫu thuật cắt bỏ khối u ở phổi, nồng độ SCC trở về giới hạn bình thường. Nếu tái phát, thường là sau phẫu thuật 4-5 tháng, nồng độ SCC lập tức tăng lên. So với các dấu ấn ung thư khác, trong ung thư phổi tế bào nhỏ, độ nhạy lâm sàng của NSE là 73%, cao hơn của CEA [28%] và của SCC [10%]; trong ung thư phổi tế bào không nhỏ, độ nhạy lâm sàng của CEA là 70%, cao hơn của SCC [41%] và của NSE [31%]; trong ung thư phổi tế bào vảy, SCC có độ nhạy lâm sàng [76-78%] cao hơn CEA [31-63%].

- Ung thư vùng đầu và cổ: Trong các ung thư vùng đầu và cổ, độ nhạy lâm sàng của SCC là 34-78%, trong đó, tỷ lệ tăng SCC trong ung thư ở xoang xương hàm trên là 49%, ở khoang miệng là 34%, ở lưỡi là 23%, ở thanh quản là 19% và ở họng là 11-33%.

- Ung thư thực quản: Trong ung thư thực quản, độ nhạy lâm sàng trung bình của sự tăng SCC là 30-39%, phụ thuộc vào giai đoạn bệnh: giai đoạn I là 0-27%, giai đoạn II là 20-40%, giai đoạn III là 39-61% và giai đoạn IV là 45-50%.   

- Ung thư da: Ung thư tế bào vảy [SCC] là hình thức phổ biến thứ hai của ung thư da nonmelanoma sau ung thư biểu mô tế bào đáy. SCC tăng cao hầu hết trong các trường hợp ung thư tế bào vẩy ở da. Cần loại trừ một số bệnh lý da lành tình như vảy nến, eczema.

- SCC tăng nhẹ trong một số trường hợp không phải ung thư:

     + Xơ gan, viêm tụy, viêm phổi, lao, viêm nhiễm phụ khoa, viêm da.

     + Riêng trong suy thận, mức độ SCC tăng tương quan thuận với mức độ tăng creatinin huyết tương.

4. Kết quả xét nghiệm SCC tăng trong một số bệnh lành tính sau

Nồng độ SCC huyết tương có thể tăng nhẹ  nhưng < 10 ng/mL] trong các bệnh lành tính với tỷ lệ tăng trong tổng số bệnh nhân ở mỗi bệnh như sau:

- Xơ gan [6-10% số bệnh nhân];

-  Viêm tụy [6-10% số bệnh nhân];

- Suy thận [44-78% số bệnh nhân], mức độ SCC tăng tương quan thuận với mức độ tăng creatinin huyết tương;

- Các bệnh phổi lành tính [viêm phế quản mạn, tắc nghẽn phổi mạn tính, lao] [0-40% số bệnh nhân];

- Các bệnh phụ khoa [3-37% số bệnh nhân], riêng viêm cơ tử cung 3-8%;

- Các bệnh ENT [21% số bệnh nhân];

- Các khối u lành tính [46% số bệnh nhân].

Nếu bạn có bất cứ câu hỏi thắc mắc nào về kết quả xét nghiệm SCC hãy gọi điện thoại theo số: 024.3821.2644 -  gặp TS. BS Nguyễn Thị Tuấn, phụ trách Khoa Miễn dịch, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 [trong giờ hành chính].

TS. BS Nguyễn Thị Tuấn

Khoa Miễn dịch, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108

CARCINOMA, SARCOMA, MYELOMA, LYMPHOMA VÀ LEUKEMIA – LÀ NHỮNG LOẠI UNG THƯ GÌ?

Tại Trung tâm Ung thư OncoCare, có những trường hợp bệnh nhân đã nhận được kết quả xét nghiệm hoặc báo cáo y tế và bị nhầm lẫn giữa tên hoặc các thuật ngữ ung thư. Một số bệnh nhân được bác sĩ điều trị hoặc bác sĩ phẫu thuật thông báo rằng cục u bướu [lump] của họ đã được cắt bỏ, và đó là một khối u [tumor/tumour]. Sau đó họ tiếp tục nhận được một báo cáo y tế rất khó hiểu. Vậy sự khác biệt giữa các thuật ngữ này là gì?

  1. Khối u có thuộc loại u ác tính?

Đây có lẽ là câu hỏi cơ bản nhất mà bệnh nhân nên hỏi. Không phải tất cả các khối u đều ác tính hoặc ung thư. U xơ tuyến vú [Fibreenoma] hay bệnh xơ nang ở vú là một số ví dụ về khối u lành tính. Một khối u lành tính nói chung không xâm nhập sâu hoặc lây lan, và thường được chữa lành bằng phẫu thuật cắt bỏ. Định nghĩa chính thức về đặc tính ung thư chính là: một khối u có các dấu hiệu tăng trưởng đặc trưng, đối nghịch với các dấu hiệu cho thấy nó ngừng phát triển [tương tự như hiện tượng to bụng khi đến tuổi trung niên!], chống lại sự chết tế bào, không ngừng nhân lên mãi mãi, thậm chí có thể tự tạo ra hệ mạch máu nuôi dưỡng tế bào ung thư [angiogenesis hay sự hình thành mạch máu].

Tương tự như nhiều đối tượng sinh học khác, một số khối u vì lý do nào đó không đáp ứng toàn bộ các tiêu chí. Trong những trường hợp này, một cuộc thảo luận hoặc hội chẩn giữa các bác sĩ chuyên khoa ung thư, đôi khi với sự hỗ trợ của một nhà nghiên cứu bệnh học, được tổ chức để xác định chính xác tính chất của khối u.

Carcinoma, Sarcoma, Myeloma, Lymphoma, hoặc Leukemia

Ung thư biểu mô hay Carcinoma [xuất phát từ tiếng Hy Lạp để chỉ “con cua”] là thuật ngữ dùng cho các bệnh ung thư phát sinh từ các tế bào Biểu mô. Chúng bao gồm các dạng ung thư phổ biến như ung thư vú, đại tràng, dạ dày, da và ung thư phổi. tế bào Biểu mô là các tế bào nằm lót bên ngoài hoặc bên trong các bề mặt của cơ thể và các cơ quan. Lưu ý rằng ung thư không thể hiển thị bằng việc kiểm tra các cơ quan nguồn gốc của bệnh qua kính hiển vi như phổi, dạ dày, vú, buồng trứng hoặc đại tràng. Nhưng trong thực tế, ung thư biểu mô có thể được chỉ rõ bởi vì loại ung thư này có các nét đặc trưng của “loại da” [squamous cell – ung thư tế bào vảy], hoặc đặc trưng hình thành tuyến [adenocarcinoma – ung thư biểu mô tuyến ở dạ dày]. Dạng ung thư này cũng có một số các đặc trưng không thể nhận ra được [anaplastic – ung thư không biệt hóa]. Ngoài ra, đôi khi ung thư được mô tả dựa trên kích thước tế bào của nó, chẳng hạn như ung thư biểu mô tế bào lớn hoặc nhỏ. Tất nhiên cũng có các loại tế bào hỗn hợp được quan sát trong sinh thiết [adenosquamous].

Các yếu tố khác của cơ thể con người có thể làm phát sinh các căn bệnh ung thư cơ, xương, sụn và các mô liên kết được gọi là sarcoma.

Máu và hệ thống bạch huyết là nguồn gốc của lymphoma [u lympho – ung thư hạch bạch huyết], myeloma [u tủy] và leukaemia [hay leukemia – bệnh bạch cầu]. Những tên gọi này có chút phức tạp. Mọi người có thể đã nghe về lymphoma Hodgkin và không Hodgkin nhưng thực tế có nhiều loại mô bạch huyết trong hệ thống của chúng ta có thể biến chứng thành ác tính. Mặc dù hầu hết chúng ta có thể biết về ung thư vú, nhiều người có thể không quen thuộc với lymphoma tế bào NK / T [hoặc Mycosis Fungoides và Hội chứng Sezary!]. Tổ chức Y tế Thế giới [WHO] đã phân loại lymphoma thành hơn 60 loại.

BẢNG: Phân loại của WHO về khối u tế bào B, tế bào T và tế bào NK trưởng thành [2008]

U tế bào B trưởng thành [Mature B-cell neoplasms] Lymphocytic leukemia mãn tính/nhỏ [Chronic lymphocytic leukemia/ small] lymphocytic lymphome Prolymphocytic leukemia tế bào B [B-cell prolymphocytic leukemia] Lymphoma vùng rìa của lách [Splenic marginal zone lymphoma] Leukemia tế bào tóc [Hairy cell leukemia]Lymphoma/leukemia trong lách, không thể phân loại [Splenic lymphoma/leukemia, unclassifiable] Tế bào B nhỏ khuếch tán tủy đỏ trong lách [Splenic diffuse red pulp small B-cell] lymphome* Leukemia-biến thể tế bào tóc* [Hairy cell leukemia-variant*] Lymphoplasmacytic lymphome Waldenstrom macroglobulinemia Bệnh chuỗi nặng [heavy chain diseases] Bệnh chuỗi nặng alpha [alpha heavy chain disease] Bệnh chuỗi nặng gamma [gamma heavy chain disease] Bệnh chuỗi nặng mu [mu heavy chain disease] Myeloma tế bào huyết tương [Plasma cell myeloma] Plasmacytoma xương đơn lẻ [Solitary plasmacytoma of bone] Extraosseous plasmacytoma Lymphoma vùng rìa extranodal của mô lymphomid liên quan đến niêm mạc [Extranodal marginal zone lymphoma of mucosa-associated lymphomid tissue [MALT lymphoma]] Lymphona vùng rìa nodal [Nodal marginal zone lymphoma] Lymphona vùng rìa pediatric nodal [Pediatric nodal marginal zone lymphoma] Lymphona có nang [Follicular lymphoma] Lymphona có nang pediatric [Pediatric follicular lymphoma] Lymphoma trung tâm có nang trên da [Primary cutaneous follicular center lymohoma] Lymphoma tế bào lớp vỏ [Mantle cell lymphoma] Lymphome tế bào B lớn khuếch tán [Diffuse large B-cell lymphome [DLBCL], NOS] Lymphoma tế bào B lớn giàu tế bào T / mô bào [T-cell / histiocyte-rich large B-cell lymphoma] EBV+ DLBCL sắp già [EBV+ DLBCL of the elderly] DLBCL kết hợp mãn tính [DLBCL associated with chronic] viêm [inflammation] Lymphomatoid granulomatosis Tế bào B lớn vách [Primary mediastinal [thymic] large B-cell] lymphoma Lymphoma tế bào B lớn trong mạch [Intravascular large cell-B lymphoma] Primary cutaneoud DLBCL, leg type Lymphoma tế bào B ALK+ lớn [ALK+ large cell-B lymphoma] Plasmablastic lymphoma Lymphoma tế bào B lớn phát sinh [Large cell-B lymphoma arising in] HHV-8 liên quan đa trung tâm [HHV-8-associated multicentric] Bệnh [Castleman disease] Lymphoma tràn dịch [Primary effusion lymphoma] Burkitt lymphoma Lymphoma tế bào B không phân loại với đặc trưng [Cell-B lymphoma, unclassifiable, with features] Lymphoma trung gian giữa DLBCL và Burkitt [intermediate between DLBCL and Burkitt]

Lymphoma tế bào B không phân loại với đặc trưng [Cell-B lymphoma, unclassifiable, with features]Trung gian giữa DLBCL và Hodgkin lymphoma thông thường [intermediate between DLBCL and classic Hodgkin lymphoma]

U tế bào T và tế bào NK trưởng thành [Mature T-cell and NK-cell neoplasms] Prolymphocyic leukemia tế bào T [T-cell prolymphocyic leukemia] Lymphocytic leukemia tế bào T lớn có hạt [T-cell large granular lymphocytic leukemia] Rối loạn lymphoproliferative mãn tính của tế bào NK [Chronic lymphoproliferative disorder of NK cells]* Leukemia tấn công tế bào NK [Aggressive NK cell leukemia] Lymphoproliferative tế bào T + EBV [Systemic EBV+ T-cell lymphoproliferative] Bệnh trẻ em [disease of childhood] Hydroa vacciniforme-like lymphoma Adult T-cell leukemia / lymphoma Extranodal NK / T-cell lymphoma, nasal type Enteropathy-associated T-cell lymphoma Hepatosplenic T-cell lymphoma Subcutaneous panniculitis-like T-cell lymphoma Mycosis fungoides Sezary syndrome Primary cutaneous CD30+ T-cell lymphoproliferative disorders Lymphomatoid papulosis Primary cutaneous anaplastic large cell lymphoma Primary cutaneous gamma-delta T-cell lymphoma Primary cutaneous CD8+ aggressive epidermatropic cytotoxic T-cell lymphoma* Primary cutaneous CD4+ small / medium T-cell lymphoma Peripheral T-cell lymphoma, NOS Angioimmunoblastic T-cell lymphoma Anaplastic large cell lymphoma, ALK+ Anaplastic large cell lymphoma, ALK-*Hodgkins lymphoma Nodular lymphocyte-predominant Hodgkins lymphoma Classic Hpdgkins lymphoma Nodular scierosis classic Hodgkins lymphoma Lymphocyte-rich classic Mixed cellularity classic Hodgkin lymphoma Lymphocyte-depleted classic Hidgkin lymphomaPosttransplantation lymphoproliferative disorders [PTLDs] Early lesions Plasmacytic hyperplasia Infectious mononulceosis-like PTLD Polymorphic PTLD Monomorphic PTLD [B and T / NK-cell types]^

Classic Hodgkins lymphoma type PTLD^

* Các thực thể tạm thời mà Nhóm Hoạt động WHO cho rằng không có đủ bằng chứng để công nhận là các bệnh riêng biệt tại thời điểm này.

^ Những thương tổn này được phân loại theo leukemia hoặc lymphoma tương ứng. Các bệnh được in nghiêng mới được thêm vào phân loại năm 2008 của WHO.

Myeloma là một dạng u tế bào B ác tính phát sinh từ tế bào plasma. Các mô chuyên biệt khác trong cơ thể con người có thể chuyển sang ác tính và chúng có tên gọi bất thường [không thông thường] như glioma [mô từ não và mô thần kinh trung ương], u ác tính [từ bớt bẩm sinh hoặc nốt ruồi] và germinoma [mô tế bào mầm như tinh hoàn hoặc buồng trứng].

  1. Khối u là nguyên phát hay di căn?

Khối u hoặc ung thư nguyên phát là khối u phát sinh từ vị trí mô nguồn gốc được tìm thấy, còn khối u thứ phát hay u di căn là khối u xuất phát từ một vị trí mô khác. Khối u trong phổi có thể phát sinh từ phổi [ung thư phổi nguyên phát] hoặc từ nơi khác [ung thư phổi di căn]. Ngay cả khi các xét nghiệm bệnh lý cho biết về loại tế bào ung thư, [ví dụ một tế bào ung thư tuyến tủy qua sinh thiết của tổn thương phổi], nó có thể là ung thư nguyên phát hoặc hoặc di căn. Một số xét nghiệm đặc biệt có thể được thực hiện trên khối u để phân biệt nguồn gốc của nó. Immunohistochemistry là một kỹ thuật để nhuộm các tế bào khối u trên một bản kính hiển vi với các kháng thể mang chất nhuộm màu. Ví dụ, các tế bào ung thư vú có thể có các thụ thể oestrogen [hoặc estrogen] [ER] và nhuộm dương tính với thụ thể hormone này có thể mang đến đầu mối cho thấy ung thư tuyến giáp xuất phát từ các mô vú.

Xác định ung thư [cho dù đó là ung thư carcinoma, sarcom, myeloma, lymphoma hay leukaemia] chỉ là bước khởi đầu nhưng rất quan trọng. Trong nhiều trường hợp việc xác định ung thư đòi hỏi sử dụng các kỹ thuật mô bệnh học và phân tử tiên tiến vì điều này có thể ảnh hưởng đến quá trình chẩn đoán và điều trị.

Tác giả:

Bác sĩ Peter Ang
Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS [Singapore]
Thạc sĩ Y khoa/MMed [Nội Khoa]
Thành viên Royal College of Physicians/MRCP [Vương quốc Anh]
Chuyên khoa Học viên Y khoa Singapore/FAMS [Ung thư Y khoa]

Bác sĩ Kevin Tay
Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS [Singapore]
Hội đồng Y học Nội khoa Hoa Kỳ/ABIM – Nội khoa
Hội đồng Y học Nội khoa Hoa Kỳ/ABIM – Ung thư Y khoa
Chuyên khoa Học viên Y khoa Singapore/FAMS [Ung thư Y khoa]

Video liên quan

Chủ Đề