Lào có bao nhiêu tỉnh giáp Việt Nam?

Đường biên giới trên đất liền Việt Nam - Lào dài 2.337,459 km, tiếp giáp giữa 10 tỉnh của Việt Nam và 10 tỉnh của Lào, theo tài liệu của Uỷ ban Biên giới quốc gia.

10 tỉnh Việt Nam có đường biên giới với Lào gồm: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam và Kon Tum. Trong đó, đường biên giới qua tỉnh Nghệ An dài nhất. 

Lào có bao nhiêu tỉnh giáp Việt Nam?

Trong 10 tỉnh của Việt Nam tiếp giáp Lào, Nghệ An có đường biên giới dài nhất - 419 km, theo Cổng thông tin điện tử của tỉnh. Nghệ An là quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà yêu nước Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Minh Khai, Hồ Tùng Mậu...

Tỉnh sở hữu khu dự trữ sinh quyển Tây Nghệ An được UNESCO công nhận có diện tích lớn nhất Đông Nam Á. Đây cũng là khu vực duy nhất của miền Bắc và Bắc Trung Bộ còn lại diện tích lớn rừng nguyên sinh đang được bảo vệ tốt, đặc biệt là khu vực dọc biên giới Việt Lào.

Hai nước có chung đường biên giới với tổng chiều dài khoảng 2.067km, đi qua 10 tỉnh biên giới của Việt Nam là Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh biên giới của Lào là Phông-sa-lỳ, Luổng-phạ-băng, Hủa-phăn, Xiêng-khoảng, Bô-ly-khăm-xay, Khăm-muộn, Sa-vẳn-nạ-khệt, Sa-la-van, Xê-kông và Ăt-tạ-pư. Điểm khởi đầu của đường biên giới ở vị trí ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Trung Quốc (Điện Biên), kết thúc ở vị trí ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Campuchia (Kon Tum). Phía Việt Nam có 153 xã, 36 huyện biên giới, 94 đồn biên phòng.

Vùng biên giới Việt Nam – Lào là một vùng hoàn toàn đồi núi. Ở phía Bắc, vùng này đ­ược tạo thành bởi những đỉnh núi độ cao trung bình 1.500-1.800m. Nhiều sông suối chảy qua những thung lũng cắt ngang tạo ra một quang cảnh chia cắt. Vùng địa lý tiếp theo về phía Nam tạo ra một vùng khó qua lại của dải Trường Sơn, có những núi cao 2.000m. Đoạn cuối của biên giới Việt-Lào thấp dần.

 

Lào có bao nhiêu tỉnh giáp Việt Nam?

Cột mốc biên giới chung Việt Nam - Lào - Campuchia

 

Hiện, hai nước đã hoàn thành cắm mốc biên giới ở 1.002 điểm, xây dựng 905 cột mốc và hoàn tất việc lập bản đồ biên giới Lào - Việt Nam tỷ lệ 1/50.000, bình quân cứ mỗi 2.6km biên giới hai nước sẽ có một điểm mốc. Việc hoàn tất các hoạt động phân định biên giới nói trên đã tạo tiền đề cho hai bên đạt được những thỏa thuận chung mới, đồng thời có ý nghĩa quan trọng về chính trị, phát triển kinh tế khu vực biên giới chung, hợp tác văn hóa, du lịch giữa nhân dân Lào và Việt Nam.

Những năm qua, khu vực biên giới chung được Đảng, Nhà nước và các địa phương quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển về nhiều mặt, đời sống kinh tế - xã hội ngày càng được nâng lên. Hệ thống chính trị cơ sở từng bước được củng cố, nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo.

Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử và địa lý, nên khu vực biên giới chung còn gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ; địa bàn rộng, dân cư phân bố không đồng đều, chủ yếu là đồng bào các dân tộc ít người, trình độ nhận thức về pháp luật và chấp hành pháp luật ở nhiều nơi còn hạn chế.

 

Lào có bao nhiêu tỉnh giáp Việt Nam?

Cửa khẩu quốc tế Bờ Y

 

Năm 2015, hai nước ký kết hiệp định hợp tác giao thương biên giới. Kể từ đó, hợp tác giữa hai nước đã đạt được các thành tựu tích cực trên nhiều mặt. Việc khuyến khích thương và đầu tư đôi bên được đẩy mạnh, thu hút các doanh nghiệp đầu tư trên nhiều lĩnh vực, góp phần quảng bá sản phẩm, thế mạnh phát triển xuất khẩu và cung cấp hàng hóa, dịch vụ giữa các địa phương hai nước.

Về lĩnh vực phát triển mạng lưới giao thương vùng biên, hiện có tổng cộng 36 chợ biên giới Lào - Việt Nam. Hai bên cũng có 8 cặp cửa khẩu quốc tế, 7 cửa khẩu quốc gia, 18 lối mở biên giới và 8 khu kinh tế đặc thù. Đây là kết quả của tình hữu nghị, đoàn kết và hợp tác trên tinh thần đôi bên cùng có lợi, phản ánh mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa Lào - Việt Nam.

Mặt khác, Việt Nam và Lào cũng phối hợp nhanh chóng trong việc bổ sung, tôn tạo các cột mốc biên giới đã tạo điều kiện thuân lợi cho thương mại song phương. Từ đó, đảm bảo tình hình an ninh khu vực biên giới chung giữa hai nước, góp phần củng cố mối quan hệ bền chặt không thể tách rời giữa hai quốc gia.

 

Trọng Huyền

Đường biên giới giữa Việt Nam và Lào dài khoảng 2.340 km, trải dài suốt 10 tỉnh của Việt Nam là: Điện Biên, Sơn La, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam và Kon Tum; tiếp giáp với 10 tỉnh phía Lào là: Phỏng Sả Lỳ, Luổng Pha Bang, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm Xay, Khăm Muộn, Sa Văn Na Khệt, Sả Lạ Văn, Sê Kông và A Ta Pư.

Phần lớn tuyến biên giới giữa Việt Nam và Lào đều đi qua đỉnh hoặc triền núi và qua rừng rậm nhiệt đới, so với mặt nước biển nơi thấp nhất vào khoảng 300m, cao nhất vào khoảng 2.700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung bình khoảng 500m, có nơi cao trên 1000m. Giữa hai nước có những dãy núi cao hình thành một đường biên giới tự nhiên: phía Bắc từ A Pa Chải trở xuống là dãy Pu Xam Sẩu, phía Nam từ Thanh Hoá trở vào là dãy Trường Sơn. Một số đèo đã trở thành các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên các đoạn biên giới khác, hầu hết là núi non hiểm trở, đi lại khó khăn.

Dân cư sống hai bên biên giới đa phần là nhân dân các dân tộc ít người, sống thưa thớt tại các làng bản rất xa nhau và xa đường biên giới. Đời sống vật chất và tinh thần của đa số đồng bào các dân tộc của hai bên còn nhiều thiếu thốn và lạc hậu. Giao thông đi lại giữa hai bên và trong khu vực biên giới của từng bên rất khó khăn, hầu như chưa có đường giao thông cơ giới (trừ một vài khu vực cửa khẩu; đông dân cư; một số đường có từ thời chiến tranh; hoặc có đường lâm nghiệp mới mở theo thời vụ đã xuống cấp nhiều…).

Các khu vực gần biên giới có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế đối với hai nước. Nhân dân hai nước ở khu vực biên giới từ lâu đã có sẵn mối quan hệ dân tộc, thân tộc gần gũi, tối lửa tắt đèn có nhau và gắn bó giúp đỡ nhau trong cuộc sống.

2. Lịch sử hình thành đường biên giới Việt Nam - Lào

a. Thời Pháp thuộc, biên giới giữa Việt Nam - Lào được xác định bằng các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương (Nghị định năm 1893, Nghị định năm 1895, Nghị định năm 1896; Nghị định năm 1900; Nghị định năm 1904; Nghị định năm 1916)

Đồng thời với việc điều chỉnh đất đai theo các Nghị định của Toàn quyền Đông Dương, thực dân Pháp đã tiến hành điều chỉnh đường biên giới và thể hiện trên bản đồ Bonne tỉ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương.

b. Sau năm 1975, hai nước nỗ lực đàm phán về biên giới lãnh thổ (02/1976) thống nhất nguyên tắc lấy bản đồ Bonne tỷ lệ 1/100.000 của Sở Địa dư Đông Dương in năm 1945 để giải quyết vấn đề biên giới giữa hai nước; nơi nào không có bản đồ của Sở Địa dư Đông Dương năm 1945 thì dùng bản đồ in trước hay sau đó một vài năm.

Ngày 18/07/1977, Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đã được đại diện hai nhà nước Việt Nam và Lào ký tại Thủ đô Viêng Chăn. Việc đàm phán thành công và ký kết Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một thắng lợi to lớn của hai Đảng, hai Chính phủ và nhân dân hai nước, đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình xây dựng biên giới Việt Nam - Lào trở thành biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và hợp tác phát triển lâu dài.

Năm 1978, hai bên bắt đầu tiến hành phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên giới Việt Nam - Lào và hoàn thành công tác này vào năm 1987. Theo đó, trên toàn tuyến biên giới Việt Nam - Lào đã xây dựng được một hệ thống mốc quốc giới với số lượng 199 mốc. Đồng thời trong giai đoạn này, hai nước đã giải quyết xong các vấn đề phát sinh liên quan đến việc giải quyết biên giới giữa hai nước như chuyển giao đất, bàn giao dân và tài sản giữa hai bên… phù hợp với luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế và phản ánh đúng thực tế đường biên giới lịch sử hình thành giữa hai nước.

Các kết quả trên đã được hai bên ghi nhận trong Hiệp ước bổ sung Hiệp ước Hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định thư về việc phân giới và cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (24/01/1986), Nghị định thư bổ sung Nghị định thư về việc phân giới và cắm mốc toàn bộ đường biên giới quốc gia Việt Nam và Lào (16/10/1987).

Sau khi hoàn thành cơ bản công tác phân giới, cắm mốc trên thực địa vào năm 1987, hai bên đã ký Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 01/03/1990 và Nghị định thư bổ sung Hiệp định về Quy chế biên giới ngày 31/08/1997 nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho công tác bảo vệ và quản lý biên giới giữa hai nước.

c. Hệ thống mốc quốc giới lúc đó được xây dựng trong giai đoạn hai nước còn đang gặp nhiều khó khăn, kinh tế chưa phát triển, kỹ thuật hạn chế nên chưa đáp ứng được yêu cầu của một hệ thống mốc chính quy, đảm bảo tính ổn định lâu dài.

Mật độ mốc quá thưa, bình quân trên 10 km một mốc (cá biệt có những nơi trên 40 km một mốc). Vì vậy, đường biên giới trên thực địa ở một số nơi không rõ ràng, nên lực lượng quản lý và nhân dân hai bên biên giới không biết rõ được đường biên giới.

Các mốc được thiết kế và xây dựng chưa phù hợp với điều kiện địa hình, địa chất, khí hậu ở khu vực biên giới cũng như kích thước mốc nhỏ, chất lượng mốc chưa cao…, nên hầu hết các mốc giới đã xuống cấp và hư hỏng. Đến nay, hầu hết các mốc đã phải gia cố phần nền móng; có mốc đã phải sửa đi sửa lại nhiều lần gây tốn kém nhưng chưa đảm bảo ổn định. Trong những năm qua hai Bên đã mở và nâng cấp nhiều cửa khẩu cùng với các công trình mới được xây dựng khang trang, hiện đại, nhiều khu vực dân cư ở gần khu vực biên giới phát triển mạnh mẽ nên hệ thống mốc cũ không còn phù hợp, không thể hiện rõ đường biên giới trên thực địa, nhất là ở các cửa khẩu, nơi đông dân cư nhiều người qua lại, gây khó khăn cho công tác quản lý biên giới.

Xuất phát từ thực tế trên, nhằm phục vụ nhu cầu phối hợp quản lý biên giới ổn định lâu dài, góp phần củng cố bền vững mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào. Từ tháng 05/2008, Việt Nam và Lào chính thức triển khai Kế hoạch tổng thể thực hiện công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam - Lào nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước theo hướng chính xác, hiện đại, bền vững và thống nhất trên toàn tuyến biên giới. Tổng số mốc tăng dày và tôn tạo gồm 792 cột mốc với 16 mốc đại, 190 mốc trung, 586 mốc tiểu. Thời gian thực hiện Kế hoạch bắt đầu từ năm 2008, trong đó ưu tiên cắm mốc ở khu vực có cửa khẩu và khu vực có đường giao thông thuận lợi đi qua nhằm tăng cường hợp tác, giao lưu phát triển kinh tế và ổn định trật tự an toàn xã hội vùng biên giới.

Ngày 18/01/2008 Việt Nam và Lào đã cùng với Căm-pu-chia cắm mốc ngã ba biên giới và ngày 26/08/2008 tại Hà Nội, đã diễn ra Lễ ký Hiệp ước xác định giao điểm đường biên giới giữa ba nước. Ngày 05/09/2008, tại cửa khẩu Lao Bảo - Đen Sạ Vẳn, hai bên đã long trọng tổ chức Lễ khánh thành mốc đôi 605. Đây là cột mốc đầu tiên chính thức khởi động cho công tác tăng dày và tôn tạo mốc quốc giới giữa hai nước. Tính đến tháng 02/2011, hai Bên đã xác định được 462 vị trí mốc và đã xây dựng 333 vị trí mốc. Hai Bên sẽ hoàn thành công tác cắm mốc trên thực địa vào năm 2012, và hoàn thành Nghị định thư, bản đồ ghi nhận kết quả vào năm 2014.

3. Cửa khẩu trên biên giới Việt Nam – Lào

STT

Việt Nam

Lào

Cửa khẩu quốc tế

1

Tây Trang (Điện Biên)

Pang Hốc (Phong Sa Lỳ).

2

Na Mèo (Thanh Hoá)

Nậm Xôi (Hủa Phăn)

3

Nậm Cắn (Nghệ An)

Nặm Cắn (Xiêng Khoảng)

4

Cầu Treo (Hà Tĩnh)

Nặm Phao (Bô Ly Khăm Xay)

5

Lao Bảo (Quảng Trị)

Đen Sạ Vẳn (Sa Văn Nạ Khệt)

6

Cha Lo (Quảng Bình)

Na Phàu (Khăm Muộn)

7

Bờ Y (Kon Tum)

Phu Cưa (A Ta Pư)

Cửa khẩu chính

1

Chiềng Khương (Sơn La)

Bán Đán (Hủa Phăn)

2

Lóng Sập (Sơn La)

Pa Háng (Hủa Phăn)

3

La Lay (Quảng Trị)

La Lay (Sả Lạ Văn)

4

Hồng Vân (Thừa Thiên Huế)

Cu Tai (Sả Lạ Văn)

5

Nam Giang (Quảng Nam)

Đắc ta Oóc (Sê Kông)

6

Huổi Puốc (Điện Biên)

Na Son (Luông Pha Băng)

Cửa khẩu phụ đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định nâng cấp thành cửa khẩu chính nhưng chưa khai trương