Khôn ngoan chẳng lọ thật thà là gì

Thứ năm, 15-06-2016 | 09:29:00 AM GMT+7 Bản in

Tục ngữ xưa “Khôn ngoan chẳng lọ thật thà/Lường thưng tráo đấu chẳng qua đong đầy” mang thông điệp: Sự ngay thẳng, trung thực sẽ tạo được niềm tin của người đời. Còn khôn ngoan đến độ... khôn lỏi, lọc lõi khó tránh khỏi sự đố kị của thiên hạ.

Ảnh minh họa

Trong đời sống kinh doanh, trên thương trường, có lẽ cũng thế chăng?

Còn nhớ, ngày 28/10/2015, Bộ Thương mại Hoa Kỳ [DOC] nhận được đơn kiện chống bán phá giá từ 4 công ty của Mỹ đối với ống thép cuộn cacbon [CWP] nhập khẩu từ Việt Nam. Ngày 17/11/2015, DOC chính thức mở cuộc điều tra ống thép nhập khẩu vào Mỹ giai đoạn từ 1/4- 30/9/2015.

Mới đây, DOC đã ra quyết định áp thuế chống bán phá giá ống thép cuộn cacbon của các công ty Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ với thuế suất 113,18% - chẳng khác nào một “đòn trời giáng”.

Đặc biệt, riêng 3 doanh nghiệp thép tại Việt Nam gồm Công ty TNHH ống thép Hòa Phát, Công ty SeaH Steel Vina và Công ty chế tạo máy Hongyuan Hải Phòng Việt Nam Hòa Phát được hưởng thuế suất tối thiểu: 0- 0,38%. Đây được coi là một quyết định đáng giá bạc tỷ từ DOC đối với 3 doanh nghiệp thép.

Sự chênh lệch thuế chống bán phá giá “một trời một vực” đó được lý giải là do 3 doanh nghiệp thép đó đã chịu khó trả lời một cách cẩn thận bản điều tra của DOC về các vấn đề liên quan. Các doanh nghiệp khác phải “gánh” thuế suất “nặng ngàn cân” do không hợp tác đầy đủ với DOC.

Đây chưa phải là kết quả cuối cùng, vì DOC sẽ tiếp tục điều tra và sẽ ban hành kết luận cuối cùng vào ngày 16/10/2016. Đồng thời Ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ [ITC] cũng ban hành kết luận cuối cùng trong tháng 11/2016.

Dù vậy, việc 3 doanh nghiệp thép được DOC “ưu ái” đã đưa ra bài học về chuyện làm ăn với Hoa Kỳ - nền kinh tế dẫn đầu thế giới: Thái độ tốt luôn có lợi.

Nếu mất báu vật "quê kiểng", “thật thà”, vùng du lịch Cửa Lò sẽ nhoà đi giữa muôn trùng những điểm du lịch khác. Và lúc ấy, biết đâu từng du khách sẽ dần bỏ đi. Như từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ…

Nhắc đến Cửa Lò, Nghệ An, lâu nay nhiều khách du lịch vẫn thường tấm tắc nức nở khen những người dân làm kinh doanh ở đây thật thà và chất phác. Họ buôn bán kiếm sống hiền lành, ít thấy cảnh chụp giật, lừa dối. Nhiều khách còn bảo thậm chí người Cửa Lò kinh doanh rất ít khi nói thách để người mua phải nhọc lòng mặc cả.

Có lẽ vì thế mà lâu nay nhiều người ở miền Bắc chọn Cửa Lò để nghỉ ngơi, du lịch phải chăng không chỉ là chọn về với "bãi cát vàng phẳng lặng, soi ánh nắng pha lê", một vùng biển sạch, không rác thải bừa bãi, mà còn muốn về với vùng quê giàu thổ ngữ "mô, tê, răng, rứa" để được nghe những lời mời mọc nghe như chim hót, những giọng nói dễ thương, gần gũi từ làng quê mái rạ, những tiếng rao bé bỏng của bầy trẻ em nghỉ hè bán lạc luộc lanh lảnh nơi triền sông có rặng phi lao rì rào giữa trưa hè…

1. Tôi về Cửa Lò dịp giữa tháng 6, gặp nắng như thiêu như đốt, như muốn thử sức sự chịu đựng của đô thị trẻ măng này.

Vô tình ghé qua quán Như Ý sát mép biển thuộc phường Thu Thủy, vừa ngồi xuống ghế đã thấy bước chân tập tễnh của ông chủ quán đi tới với nụ cười: "Bác uống với em chén nước! Cần gì thì bảo em nhé". Nghe lời mời đã thấy thân thiện, vì cứ nghĩ đã kịp ăn uống, mua bán gì đâu mà mong chủ quán nhiệt tình với mình.

Ông chủ tên là Nguyễn Xuân Đường, lại là một thương binh hạng hai thời chiến đấu bảo vệ biên giới phía Nam Tổ quốc. Một vợ 4 con, Nguyễn Xuân Đường neo cả gia đình bên cái quán sát mép biển và trụ ở đây gần chục năm để nuôi các con ăn học. Chỉ cần thấy bước chân thấp cao của người thương binh ấy, tôi đã thấy cảm tình.

Một góc bãi biển Cửa Lò. Ảnh: G.G.

Tôi hỏi ông, vì sao nhiều người ở Hà Nội thích tác phong phục vụ giao tiếp của dân Cửa Lò? Ông Đường cười mà rằng, ở đây bà con ai cũng ý thức được điều đó, nên không ai bảo ai phải giữ cho kỳ được sự chân thành, trung thực trong buôn bán. Đó là chất của người xứ Nghệ, không nên thay đổi, nhất là ở vùng du lịch này. Theo ông, đừng bao giờ nghĩ rằng, mình chỉ gặp khách một lần mà dùng thủ thuật không lương thiện cốt moi được nhiều tiền, bất chấp đạo lý.

Khách gặp một lần hay gặp nhiều lần, cũng nên đem lòng tử tế, thân thiện, chân thành ra mà đối đãi… Vì thế mà khách ăn món gì, ông đều nói giá trước để họ lựa chọn. Khi khách yêu cầu được ăn cua, ăn ghẹ, ăn tôm… ông đều tư vấn cho biết đâu là tôm, cua biển, đâu là tôm, cua nuôi để họ biết giá cả.

Mọi việc mua bán đều được thoả thuận trước. Biết quê Nghệ thường bị khách sành ăn xứ Bắc coi là "chặt to kho mặn", ông dặn vợ sẵn sàng cho khách mượn bếp nhà mình để trổ tài nấu nướng cho hợp khẩu vị…

Tôi thật thú vị khi được Nguyễn Xuân Đường cho biết, quán Như Ý của ông thường bán cho khách Hà Nội chỉ chiếm 20%, còn 80% lại là bán cho khách xứ Nghệ. Theo ông: "Khách Hà Nội nếu giỏi lắm một năm chỉ ghé Cửa Lò được 2 lần.

Nhưng khách Vinh, khách Nghệ An, Hà Tĩnh tuần nào cũng có thể đến Cửa Lò do ưu thế "nhất cự li, nhì cường độ". Ông bảo người dân quê ông là thế, họ dường như không bao giờ "đỏ mắt" khi thấy người khác bán đắt hàng hơn mình.

Còn đối với ông, ai đến quán cũng được ông đón tiếp bằng tấm lòng "khôn ngoan chẳng lọ thật thà". Vì thế tính ra mỗi mùa du lịch ông Đường cũng thu được đủ tiền nuôi cả nhà quanh năm.

2. Đối điện với quán ăn Như Ý qua đường Bình Minh là khách sạn Biển Xanh cũng thuộc phường Thu Thủy nằm cách bãi cát Cửa Lò chừng hơn trăm mét. Chỉ cao 4 tầng với khoảng 30 phòng khá đầy đủ tiện nghi, khách sạn Biển Xanh cũng hút khách thập phương bằng tấm lòng chân thật ấy.

Khách nghỉ tại Biển Xanh khi ra về, thường hay nhớ tới một nữ quản lý tên là Phan Thị Bảy. Dường như không tìm thấy ở chị một hành động nào được hiểu như là sự tiếp thị. Chị vui vẻ, sẵn lòng tư vấn cho khách nếu không ăn ở nhà hàng Biển Xanh thì nên ăn ở quán nào ngon miệng và rẻ nhất. Chị cũng thường nói trước với khách giá cả những món ăn để khách lựa chọn, luôn tiếp thu những lời góp ý của khách để hoàn thiện mình.

Chị bảo: "Khách thập phương có nhiều người thuộc diện sang trọng, phú quý, giàu có, nhiều người còn đi khắp thế giới tiếp xúc với văn minh, tiên tiến. Vậy họ về Cửa Lò để mong gặp điều gì, nhất là đối với Biển Xanh, một khách sạn tư nhân?".

Chị tự trả lời rằng, khách chỉ mong được đón tiếp bằng tấm lòng chân thành, trung thực. Cũng rất vô tình tôi gặp gia đình anh Tuấn nhà ở quận Ba Đình, Hà Nội đang nghỉ tại khách sạn Biển Xanh lúc anh đang tận tình hướng dẫn chị Bảy cách lắp đặt hệ thống Internet và Cap TV để phục vụ khách được tối ưu nhất.

Thì ra gia đình anh nhiều năm qua đều chọn Cửa Lò là nơi nghỉ mát và chọn Biển Xanh để ở cũng chính bởi yêu quý sự thật thà ấy. Anh Tuấn kể, hiện anh làm việc tại khách sạn La Thành do một lần đi du lịch, anh bị thất tín trước một hành vi kinh doanh lừa dối tại một vùng biển gần Hà Nội mà dăm năm trở lại đây gia đình anh chỉ tìm đến Cửa Lò như tìm về một vùng bình yên, tin cậy vậy…

3. Giờ thì tôi đã hiểu rằng, giữa một thế giới với chằng chịt những mối quan hệ đa chiều, phức tạp, thậm chí có cả lọc lừa, người ta lại luôn muốn hướng về một vùng đất hồn nhiên, trong trẻo. Cửa Lò với chất "quê kiểng", bản tính thật thà như là một "đặc sản" ấy sẽ đáp ứng được mong muốn của du khách.

Dường như người Cửa Lò càng ngày càng ngộ ra một chân lý giản dị, chất thật thà, quê kiểng đang trở thành lối văn hoá ứng xử - một "tài sản" vô giá về thương mại, hãy gìn giữ lấy nó như gìn giữ báu vật.

Mất báu vật, vùng du lịch Cửa Lò sẽ nhoà đi giữa muôn trùng những điểm du lịch khác. Và lúc ấy, biết đâu từng du khách sẽ dần bỏ đi. Như từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ…

Thái Hưng

Nhà văn Bình Ca năm 17 tuổi [bìa phải, hàng sau] cùng các nguyên mẫu: Khanh, Việt, Hoàng trong truyện Quân khu Nam Đồng.

​“Tôi viết theo bản năng”

Tôi sinh ra trong một gia đình không xa lạ với văn chương, chữ nghĩa. Dù là một con mọt sách, nhưng từ bé, tôi đã xác định mình sẽ không bao giờ theo nghiệp văn chương vì thấy nghề này đã nghèo lại còn khổ. Giữa năm 2014, sau khi dự kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Khu tập thể quân đội Nam Đồng nơi tôi sinh ra và lớn lên, tôi nảy ý định ghi lại những câu chuyện thời chúng tôi ở “Quân khu Nam Đồng” để đưa bạn bè đọc chơi. Viết xong, gửi cho em trai tôi vốn là một nhà báo, nhà thơ đọc trước, cậu ấy đã khuyên tôi nên in thành sách. Nói thật, tôi hoàn toàn không nghĩ một cuốn sách, nói theo cách của nhà văn Bảo Ninh là “chẳng giống ai”, lại được nhiều người tìm đọc như thế.

Đọc “Quân khu Nam Đồng” thấy dữ liệu ký ức tuổi thơ của tác giả rất dồi dào, dường như nó được kể lại, sắp xếp từ những câu chuyện có thật trong ký ức của “một lứa bên trời”. Ông gặp khó khăn gì khi phải lựa chọn sắp xếp những ký ức ấy?

Tôi viết hoàn toàn theo bản năng. Từ khi mở đầu tới kết thúc truyện, tôi không theo đề cương, bố cục, mà để ký ức tự do theo dòng chảy của nó. Tôi không có ý định in sách nên cũng chẳng quan tâm đến chuyện phải viết cho sao “chuyên nghiệp” - thú thật, đây là lĩnh vực tôi hoàn toàn không biết. “Quân khu Nam Đồng” là câu chuyện có thật trong một khu gia binh thời chiến. Tôi chỉ kể về những chàng trai, cô gái sống trong khu tập thể ấy theo cách của tôi. Nhưng nửa thế kỷ đã trôi qua, mọi thứ đều trở nên mờ mờ ảo ảo. Vì vậy, có những lúc tôi cho phép mình bay bổng trong ký ức. Một số nguyên mẫu nhận xét: “Vẫn biết là viết về chuyện của mình, nhưng không thể nào hình dung trang tiếp theo tác giả sẽ viết gì”. Có những chuyện, mọi người hỏi nhau “không biết thật hay bịa?” Rất nhiều chuyện thật hoàn toàn, họ đọc xong khẳng định là “bịa”, như chuyện Hoàng bế cô người yêu đi qua cầu Khỉ, rơi tõm xuống con mương dẫn nước thải ra hồ Xã Đàn. Còn những chuyện bịa 100% thì mọi người lại bảo “thật tới mức không thể thật hơn nữa”.​

Viết một cuốn sách phải chăng là cách “đi tìm thời gian đã mất”? Ông đã rút ra được điều gì khi ngược dòng thời gian bằng văn chương?

​Có lẽ qua “Quân khu Nam Đồng”, tôi rút ra một điều: Khôn ngoan chẳng lọ thật thà. Hình như điều này đúng cả trong đời sống lẫn văn học. Nếu sau này tôi có viết kỷ yếu, tản văn hay hồi ký gì đó, tôi vẫn sẽ giữ nguyên “kiểu thật thà”. Văn tức là người, nếu giả dối, dù chỉ một chút, người đọc sẽ nhận ra ngay. Có một bạn đã viết cho tôi mấy dòng như sau: Em vẫn “trăn trở” vì “Quân khu Nam Đồng”. Em nghĩ đến khái niệm “trung thực” của nghề viết. Cuộc sống thực tiềm tàng những điều kỳ diệu và sâu lắng chất văn chương hơn nhiều so với trí tưởng tượng của nhà văn và nghệ thuật hư cấu của văn học. Nếu người viết cứ hão huyền vẽ ra nhưng “xen” lâm li kỳ dị thì thực chất sẽ tuôn ra đời những trang viết gượng gạo và nhạt thếch...

Nhưng như ông chia sẻ, ông viết “Quân khu Nam Đồng” là viết chơi cho mình và cho bạn bè, vậy mà sao cuốn sách lại được đông đảo độc giả đón nhận?

​Gabriel Garcia Marquez từng nói: “Trí nhớ của trái tim xóa đi những điều xấu và phóng đại những điều tốt đẹp”. Có lẽ “Quân khu Nam Đồng” với những câu chuyện hồn nhiên, trong sáng của tuổi hoa niên ngày ấy đã tình cờ chạm được tới trái tim số đông độc giả và gợi nhớ về những năm tháng tươi đẹp của một thời đã xa, rất xa...

Xuất hiện trên văn đàn đầy bất ngờ và thành công từ tác phẩm đầu tiên, vậy ông có ý định trở thành người viết chuyên nghiệp không?

​Ồ, câu trả lời luôn là không. Không bao giờ. Kể cả sau này có bỗng dưng nổi hứng, hay số phận xui khiến tôi viết thêm một hoặc vài tác phẩm, tôi cũng vẫn sẽ chỉ là một “tay ngang”. Tôi không viết theo những quy tắc học thuật tôi không biết, không viết vì “danh” hay vì tiền... Tôi sẽ chỉ viết những gì trong lòng tôi thôi thúc.

Phải chăng ông đang “sợ hãi” với những áp lực từ thành công của mình nên muốn làm một người “tay ngang” để nhận được ưu ái từ bạn đọc?

Lẽ nào một người viết “tay ngang” sẽ được độc giả ưu ái, nếu những điều anh ta viết ra không chạm tới trái tim họ?

Đọc “Quân khu Nam Đồng” thấy các nhân vật bị đẩy vào những ranh giới mong manh. Đằng sau những trận ẩu đả kinh hoàng kiểu đường phố là chất can đảm, xả thân vì bè bạn. Thêm một chút, sẽ thành côn đồ, hư hỏng. Bớt một chút, là èo uột, đớn hèn. Vì sao lại có những lằn ranh làm thót tim bạn đọc như vậy?

Đó là do những hệ lụy của chiến tranh. Khi đất nước dồn tất cả sức lực cho tiền tuyến, những bất ổn hậu phương đã nảy sinh. Các băng nhóm trộm cướp, trấn lột xuất hiện. Khí chất của con nhà lính cương cường, không chịu khuất phục, sẵn sàng xả thân bảo vệ bạn bè, bảo vệ lẽ phải đã khiến những đứa trẻ lao vào cuộc chiến và từng bước trượt chân mà vẫn nghĩ mình đang đi trên con đường đúng... Trong giai đoạn phát triển tính cách từ trẻ con thành người lớn, khi những cậu bé cần sự giúp đỡ, chỉ dẫn của cha mẹ nhất thì các ông bố - bộ đội lại không có mặt. Và những trận đánh kinh hoàng đã xảy ra...

Cũng có người hỏi tôi: Viết về những “trận đánh” của “Quân khu Nam Đồng” như thế có “dữ dằn” quá không? Có sợ tác động đến tình trạng “bạo lực học đường” đáng báo động như hiện nay không?

Tôi viết về những “trận đánh” chỉ để đưa ra một lời nhắn nhủ: Nếu các bạn trẻ không biết làm chủ bản thân, trượt ngã từ những bước đi đầu đời, các bạn sẽ làm hỏng cả tương lai. Đất nước cần những điều khác ở thế hệ thanh niên quả cảm, đầy nhiệt huyết và tinh thần nghĩa hiệp như các bạn, đó là dám đương đầu với cái xấu, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ bạn bè, sẵn sàng làm tròn nghĩa vụ công dân, chứ không cần những người lười học, thích quậy phá, sống không có định hướng và lý tưởng. Tôi cũng muốn đề cập tới trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục thế hệ trẻ - một thế hệ có “tuổi thơ dữ dội” như trong “Quân khu Nam Đồng”.

​“Những xuân xưa ấm áp...”

​Lại thêm một cái Tết và mùa Xuân mới sắp đến, ở tuổi này, ông có nhớ rõ những cái Tết và mùa xuân ở “Quân khu Nam Đồng” ngày đó?

Sau trận B52 kinh hoàng tháng Mười hai năm 1972, chúng tôi trở về Hà Nội, và đón những cái tết cuối cùng trước khi rời ghế nhà trường. Tôi còn nhớ, từ ngày ông Công ông Táo lên trời, lũ trẻ con trong khu tập thể đã tưng bừng náo nức. Bên những thùng thép hình trụ dài, vốn là vỏ quả tên lửa nay dùng đựng nước, có một hàng xô chậu xếp dài vô tận. Từ tư lệnh quân khu, quân đoàn tới cụ bà và lũ trẻ ngồi la liệt chờ lấy nước. Suốt ngày, bọn chúng tôi gò lưng trên những chiếc xe đạp cà tàng giúp gia đình mua hàng Tết: gạo, thịt, miến, măng, mộc nhĩ, bánh kẹo và pháo tép. Tùy hoàn cảnh, dù to nhỏ khác nhau, nhà nào cũng có một bó hoa. Hoa ngày đó, chủ yếu là thược dược, đồng tiền, lay ơn, violet và đào... Thường là hai ba nhà nấu chung một nồi bánh chưng, nồi đặt ngay ở hành lang khu tập thể hoặc ngoài sân, dưới những gốc phi lao. ​Đứa nào cũng mong tới bữa cơm chiều 30 Tết - bữa cơm ngon nhất trong năm. Sau bữa cơm tất niên, tới phần mừng tuổi. Túi bố không bao giờ có tiền [vì đã bị mẹ tịch thu hết] nên bố thường mừng tuổi con trai một trong những thứ như mũ dạ, thắt lưng, dép đúc, mũ cối, đôi khi là cả cái áo đại cán... tất nhiên không phải lúc nào cũng mới tinh.

Tuy cuộc sống khó khăn nhưng mùa xuân những năm đó thật ấm áp. Bầu trời dường như cao hơn, lạnh hơn, mưa phùn dày hơn và lòng người thơ thới hơn. Đêm giao thừa nào chúng tôi cũng đi vòng quanh Bờ Hồ đông nghẹt người. Vẫn dép đúc, mũ dạ và áo đại cán, nhưng không mang theo búa và lê AK. Tết mà.​

Chiến tranh có hiện hữu trong những cái Tết của lũ trẻ ở “Quân khu Nam Đồng” không?

​Không phải tất cả đều vui khi Tết về. Đạn bom không còn rơi xuống miền bắc, nhưng chiến tranh vẫn luôn hiện hữu trong khu tập thể. Có đứa nhiều cái Tết không được nhận quà của bố vì bố ở chiến trường xa không về. Không ít đứa từ một tháng trước Tết, ngày nào cũng ra cửa ngóng bác đưa thư, mong nhận được thư của bố để biết bố vẫn còn sống. Có những đứa ngày Tết chỉ còn được gặp bố qua di ảnh, thắp cho bố nén nhang mà nước mắt chứa chan. Dù còn trẻ, nhưng chúng tôi luôn ý thức rõ ràng cuộc chiến đang đợi chúng tôi ở phía trước, và sẵn sàng đi tiếp con đường của bố mình.​

Đọc “Quân khu Nam Đồng” thấy chất hài hước rất đậm. Vì sao trong cuộc sống vất vả, thiếu thốn thời bao cấp, người ta vẫn giữ được tiếng cười trong trẻo, nhưng giờ đây khi cuộc sống no đủ hơn nhiều thì dường như lại thiếu vắng tiếng cười ấy, cả trong đời sống lẫn văn học?

Lớn lên trong thời bao cấp thiếu thốn, nhưng với thế hệ chúng tôi, những năm tháng tuổi thơ sống trong “Quân khu Nam Đồng” luôn là quãng thời gian đẹp nhất. Một cuộc sống hồn nhiên và luôn vui vẻ. Nhưng tôi không nghĩ cuộc sống bây giờ thiếu vắng tiếng cười so với thời bao cấp. Cho dù còn nhiều điều làm ta trăn trở, cuộc sống luôn vận động theo chiều hướng đi lên. Với tôi, cũng có lúc cảm thấy cô đơn, mệt mỏi, thậm chí bức bối. Khi đó, tôi thường tự hỏi khi tỉnh dậy: “Nếu sáng nay mình buồn, mọi việc trong ngày có diễn ra tốt đẹp hơn không?” Câu trả lời luôn là “không!” Vậy thì sao lại phải buồn nhỉ? Và tôi dứt khoát không để nỗi buồn xâm chiếm khi bắt đầu một ngày làm việc. Buồn hay vui, là do cách chúng ta nhìn cuộc sống mà thôi. Nếu chúng ta mỉm cười với cuộc sống, cuộc sống sẽ nở nụ cười với chúng ta.

Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!

Video liên quan

Chủ Đề