Khó khăn và thuận lợi của việc phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam

Tín dụng xanh là xu hướng tài chính bền vững, trở thành xu hướng phát triển chung và là cấu phần quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của các nước. Ngân hàng Việt Nam những năm gần đây cũng đẩy mạnh tăng tốc trên hành trình 'xanh hoá' nguồn vốn.

Phát biểu tại Tọa đàm tham vấn ý kiến ban hành Thông tư hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD do Ngân hàng Nhà nước [NHNN] phối hợp với IFC và Cục kinh tế liên bang Thụy Sỹ [SECO] tổ chức ngày 21/10/2021, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú khẳng định: ngành Ngân hàng Việt Nam luôn xác định rõ vai trò, trách nhiệm trong việc phát triển tín dụng xanh. 

Tổng quan về tín dụng xanh

Tín dụng xanh được hiểu là những khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho các dự án không gây rủi ro hoặc nhằm bảo vệ môi trường, nói cách khác là những khoản cấp tín dụng dưới dạng tài trợ vốn, cho vay, các hình thức cấp tín dụng khác, mà trong đó có tính đến tác động môi trường và tăng cường bền vững môi trường [Phạm Xuân Hòe, 2015].

Mục tiêu chung của tín dụng xanh: Tín dụng xanh là công cụ chính sách quan trọng để tiến hành thực hiện rộng rãi mô hình tài chính xanh và ngân hàng xanh, tiến tới xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế xanh thông qua việc áp dụng tiêu chuẩn về môi trường khi cấp vốn vay cho các dự án vì môi trường, giảm thiểu khí thải ô nhiễm, hướng tới một nền kinh tế các-bon thấp, phát triển kinh tế bền vững.

Vai trò của tín dụng xanh: Tín dụng xanh là hướng đi tất yếu của ngành tài chính toàn cầu và ngành Ngân hàng Việt Nam nói riêng. Tín dụng xanh đem lại những lợi ích rất lớn trong công cuộc bảo vệ môi trường và nhiệm vụ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Tín dụng xanh không chỉ mang lại lợi ích đối với doanh nghiệp thực hiện các dự án phát triển kinh tế mà còn mang lại lợi ích cho chính sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng thông qua việc giảm thiểu các khoản nợ khó đòi, tăng cường mức độ ổn định tài chính và bảo vệ danh tiếng trên thị trường, thúc đẩy phát triển bền vững và hiện thực hóa chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam.

Là kênh cung ứng tài chính quan trọng của nền kinh tế, Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, ngành Ngân hàng Việt Nam luôn xác định vai trò, trách nhiệm trong việc “xanh hóa” dòng vốn đầu tư cho mục tiêu phát triển bền vững. Từ năm 2015, cùng với sự hỗ trợ kỹ thuật của tổ chức IFC, NHNN đã ban hành nhiều văn bản định hướng hoạt động ngân hàng vào lĩnh vực xanh, hạn chế dòng vốn vào những dự án có nguy cơ tác động xấu tới môi trường, thông qua việc Ban hành Chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; Ban hành Sổ tay hướng dẫn quản lý rủi ro môi trường và xã hội đối với 15 ngành kinh tế làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các Tổ chức tín dụng [TCTD] phục vụ công tác thẩm định và ra quyết định cấp tín dụng đối với khách hàng...

Qua tổng kết, đánh giá trong giai đoạn 2014-2020, đa số các TCTD đã nhận thức được nguy cơ rủi ro về môi trường và xã hội trong hoạt động ngân hàng. Nhiều TCTD đã chủ động hợp tác, tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức tài chính quốc tế, trong đó có tổ chức IFC, để xây dựng quy chế nội bộ thực hiện quản lý rủi ro môi trường cho một số hoạt động cấp tín dụng đối với khách hàng, ban hành các chính sách về môi trường, về cấp tín dụng xanh của TCTD. Dư nợ tín dụng được đánh giá rủi ro môi trường của hệ thống TCTD tăng trưởng đều qua các năm, đến nay đã chiếm hơn 17% trên tổng dư nợ của nền kinh tế.

Thực trạng triển khai hoạt động tín dụng xanh của ngành Ngân hàng Việt Nam

Theo báo cáo của Vụ Tín dụng các ngành kinh tế [NHNN] về tình hình triển khai phát triển ngân hàng xanh đến năm 2020, tín dụng xanh tại các NHTM được thực hiện dưới nhiều hình thức. Phần lớn các ngân hàng [khoảng gần 80% tổ chức tín dụng báo cáo] lồng ghép các quy định, văn bản chỉ đạo điều hành trong hoạt động ngân hàng. Khoảng 50% tổng số ngân hàng báo cáo đã nghiên cứu xây dựng quy định hướng dẫn đánh giá rủi ro môi trường và xã hội. Tuy nhiên, số lượng các Ngân hàng Việt Nam thành lập bộ phận chuyên trách về ngân hàng xanh, tín dụng xanh, có quy trình thẩm định riêng đối với các khoản cấp tín dụng và có các hỗ trợ, ưu đãi cho các khoản tín dụng xanh rất hạn chế, chỉ khoảng 10 ngân hàng, chiếm khoảng 10% tổng số tổ chức tín dụng thực hiện báo cáo [Ánh Tuyết, 2021].

Theo thống kê, dư nợ tín dụng xanh đã tăng từ hơn 71.000 tỷ đồng lên 340.000 tỷ đồng trong giai đoạn 2015-2020. Tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh ở mức cao, với tốc độ tăng trưởng đạt cao nhất vào năm 2017. Tỷ trọng tín dụng xanh so với tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế tăng đều từ 1,55% năm 2015 lên 3,7% năm 2020. Dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh tính đến hết quý I/2021 là khoảng 335.000 tỷ đồng, chiếm 3,6% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, chủ yếu tập trung ở lĩnh vực nông nghiệp xanh [hơn 39%] và năng lượng tái tạo [37%]. Dư nợ tín dụng đã được đánh giá rủi ro môi trường và xã hội là 1.312.659 tỷ đồng, chiếm khoảng 14,17% tổng dư nợ toàn nền kinh tế [Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, NHNN]. Một số NHTM Việt Nam có tỷ trọng tín dụng xanh cao như: Agribank, BIDV, Sacombank, TPBank, Vietinbank, VPBank, Nam Á Bank, HD Bank....

Phần lớn nguồn tài chính cho tín dụng xanh của các NHTM, tổ chức tín dụng hiện nay dựa vào các chương trình, dự án có nguồn tài trợ quốc tế. Điển hình như: BIDV đã tiếp cận được 147,76 triệu USD là nguồn vốn uỷ thác nước ngoài tài trợ lĩnh vực tín dụng năng lượng xanh và BIDV đã thực hiện cấp tín dụng cho các dự án xanh với dư nợ là 106,3 triệu USD tính đến hết quý I/2021; Cơ quan phát triển Pháp cung cấp khoản vay dài hạn 100 triệu USD và hỗ trợ kỹ thuật 300.000 EUR cho BIDV và khách hàng của BIDV; TPBank ký hợp đồng khoản vay dài hạn 20 triệu USD trong vòng 3 năm từ Quỹ Hợp tác khí hậu toàn cầu, tăng cơ hội tiếp cận nguồn vốn có lãi suất hấp dẫn cho các dự án, phương án sản xuất kinh doanh tiết kiệm năng lượng, giảm thải CO2 và thân thiện với môi trường [Bùi Thị Hoàng Lan, 2020].

Ngân hàng Nam Á ký hợp tác với Quỹ Hợp tác khí hậu toàn cầu triển khai chương trình Tín dụng xanh nhằm cung cấp tín dụng trung và dài hạn cho các dự án thúc đẩy giảm khí thải CO2 và các dự án tiết kiệm tối thiểu 20% nhu cầu năng lượng...

Một số Ngân hàng Việt Nam cũng chủ động tham gia các dự án tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế về bảo vệ môi trường như Agribank tham gia dự án nâng cao chất lượng, an toàn sản phẩm nông nghiệp và phát triển chương trình khí sinh học, dự án nguồn lợi ven biển vì sự phát triển bền vững…

Một số tồn tại, hạn chế trong việc phát triển tín dụng xanh của Việt Nam

Phát triển tín dụng xanh ở Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực do có sự hỗ trợ tích cực từ ngành Ngân hàng Việt Nam, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:

Thứ nhất, khung pháp lý về tín dụng xanh còn hạn chế khi thiếu các quy định về tiêu chí thẩm định, đánh giá tăng trưởng và rủi ro đối với các dự án xanh. Hơn nữa, quy định, khái niệm, tiêu chuẩn cụ thể về các danh mục ngành, lĩnh vực xanh áp dụng chung trên cả nước còn thiếu, dẫn đến khó khăn cho các tổ chức tín dụng khi lựa chọn, thẩm định và giám sát khi cấp tín dụng xanh.

Thứ hai, tín dụng xanh tại các tổ chức tín dụng chưa phổ biến rộng rãi, hiện dư nợ tín dụng xanh chỉ chiếm dưới 5% tổng dư nợ tín dụng của toàn bộ nền kinh tế. Một trong những khó khăn của việc triển khai tín dụng xanh là những dự án về năng lượng sạch, năng lượng tái tạo... thường yêu cầu nguồn vốn lớn, duy trì trong một thời gian dài, đòi hỏi ngân hàng phải có lượng vốn lớn và dài hạn. Hơn nữa, để khẳng định được một dự án là xanh cần có sự thẩm định kỹ càng nhằm đảm bảo tuân thủ những điều kiện môi trường xã hội khắt khe. 

Thứ ba, số lượng doanh nghiệp tiếp cận được tín dụng xanh hiện nay còn ít. Tại Việt Nam, kinh tế tuần hoàn mới chỉ được thực hiện trong một số doanh nghiệp lớn, có vốn đầu tư nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và siêu nhỏ có tiềm lực tài chính hạn chế, thiếu đầu tư cho công nghệ tái chế. Khi các doanh nghiệp muốn tiếp cận tín dụng xanh cần chứng minh phương án kinh doanh đáp ứng được các điều kiện khắt khe về bảo vệ môi trường, hoàn tất các thủ tục phức tạp trước, trong và sau cho vay theo quy định của các tổ chức tín dụng, dẫn đến thời gian xin cấp tín dụng kéo dài.

Giải pháp nào cho ngành Ngân hàng Việt Nam để xanh hóa dòng vốn hiệu quả?

Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường. Đây là cơ sở pháp lý để NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn các TCTD quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Tuy việc cho vay và thực hiện chính sách nhằm bảo vệ môi trường thông qua dòng vốn đầu tư của các NHTM trong thời gian qua triển khai đã tích cực, nhưng khi Luật Bảo vệ môi trường được ban hành, với trách nhiệm kênh cung ứng vốn cho nền kinh tế, ngành Ngân hàng Việt Nam đẩy mạnh, thể hiện sự quyết liệt hơn nữa. Chính vì thế cần có hành lang pháp lý đầy đủ thuận lợi cho các TCTD thực hiện các mục tiêu này.

“Việc ban hành Thông tư của NHNN và triển khai của các TCTD tiếp tục thể hiện thông điệp mạnh mẽ về trách nhiệm của ngành Ngân hàng Việt Nam đối với công tác bảo vệ môi trường, đồng thời sẽ giúp các TCTD nâng cao chất lượng tín dụng và khả năng chống chịu rủi ro trong hoạt động cấp tín dụng”, Phó Thống đốc khẳng định và cho biết thêm Thông tư của NHNN dự kiến sẽ có hiệu lực thi hành từ 1/1/2022, cùng với thời điểm hiệu lực của Luật Bảo vệ môi trường và có tính bắt buộc thực hiện đối với tất cả các TCTD.

Với vai trò là cơ quan ban hành chính sách, NHNN mong muốn nhận được ý kiến tham gia, góp ý của các Bộ, ngành, các TCTD và các chuyên gia trong và ngoài nước về lĩnh vực môi trường để hoàn thiện dự thảo Thông tư, tạo thuận lợi cho các TCTD trong quá trình triển khai, thực hiện. Chia sẻ tại Tọa đàm, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế Phạm Thị Thanh Tùng cho biết, từ xu hướng của nhiều quốc gia, thực trạng môi trường Việt Nam và nhất là nhiều TCTD phát sinh rủi ro tài trợ vốn cho dự án tác động xấu đến môi trường. Tiếp thu góp ý dự thảo lần 1 Thông tư này, dự thảo lần 2 bổ sung một số quy định mới về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng...

Cụ thể, Dự thảo bổ sung quy định không áp dụng đối với hoạt động cấp tín dụng giữa các TCTD; bỏ quy định TCTD thực hiện phân loại, trích lập DPRR và xử lý rủi ro tín dụng đối với khoản cấp tín dụng có rủi ro về môi trường theo quy định hiện hành của NHNN. Ngoài ra, còn loại trừ các hình thức cấp tín dụng không thuộc đối tượng quản lý rủi ro môi trường của TCTD như chiết khấu, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và phát hành thẻ tín dụng...

Đồng tình với sửa đổi trên, TS. Vũ Mai Chi – Học viện Ngân hàng bổ sung thêm một số đối tượng không có rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng, như khoản vay vốn đáp ứng nhu cầu đời sống, vay tiêu dùng... Theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường, các dự án đầu tư được phân loại theo mức độ nguy cơ tác động xấu đến môi trường. Trong đó các dự án đầu tư thuộc Nhóm IV là loại dự án không có nguy cơ tác động xấu đến môi trường. Mặt khác, theo thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động quản lý rủi ro tại một số TCTD thì hầu hết đều xây dựng một danh sách loại trừ khi thực hiện đánh giá rủi ro môi trường.

Do vậy, TS. Mai Chi khuyến nghị NHNN quy định nhu cầu vốn thực hiện dự án đầu tư, cơ sở sản xuất – kinh doanh thuộc nhóm IV theo quy định tại Luật Bảo vệ môi trường sẽ không phải thực hiện quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng.

Chia sẻ kinh nghiệm của IFC trong việc xây dựng các tiêu chuẩn để quản lý bền vững về môi trường và xã hội trong các khoản đầu tư của IFC vào các thị trường mới nổi, ông Kyle Kelhofer - Giám đốc IFC khu vực Việt Nam, Lào, Campuchia cho biết, IFC đề nghị tất cả các khách hàng, đặc biệt khách hàng là ngân hàng để có thể thiết lập được hệ thống quản lý môi trường và xã hội bao gồm các thủ tục cam kết quản lý, phân định vai trò và trách nhiệm cũng như các hướng dẫn mà một tổ chức sẽ cần tuân thủ để rà soát và quản lý các vấn đề về môi trường – xã hội cũng như các rủi ro liên quan đến các khoản đầu tư đó. Những tiêu chuẩn này là một khuôn khổ quản lý rủi ro mạnh mẽ và được áp dụng rộng rãi và cũng thay đổi cách thức nhìn nhận của ngành Ngân hàng Việt Nam đối với rủi ro phi tài chính và phân bổ tài chính trên các thị trường mới nổi.

“Một hệ thống như vậy sẽ giúp các Ngân hàng Việt Nam quản lý sớm các rủi ro về môi trường – xã hội tiềm ẩn, ra quyết định chiến lược nhằm cải thiện được tính bền vững của các dự án được tài trợ trong nước và quốc tế. Theo cách đó, các ngân hàng cũng có thể tập trung đầu tư ở những công ty và dự án có hiệu quả cao về mặt môi trường – xã hội cũng như tài chính. Điều này sẽ giúp các Ngân hàng Việt Nam bảo vệ được danh mục tài sản của mình bằng cách giảm các khoản cho vay kém hiệu quả hoặc nợ xấu, do đó tăng cường sự ổn định về tài chính”, Giám đốc IFC nhấn mạnh.

Xem thêm thông tin chi tiết về tin tức ngành Ngân hàng Việt Nam tại: 
//vietnamcredit.org/tin-tuc 

Nguồn: Thời báo Ngân hàng, Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ

Video liên quan

Chủ Đề