Học thuyết nhân chính của Mạnh Tử và những giá trị ý nghĩa của nó

1 MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ quá độ từ xã hội chiếm hữu nô lệ sang xã hội phong kiến ở Trung Hoa cổ đại. Thời kỳ này diễn ra những biến động về kinh tế dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu giai tầng của xã hội. Lúc này xã hội Trung Quốc đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển, tầng lớp quốc dân xuất hiện, đặc biệt là sự ra đời của các thành thị tự do phồn vinh và những thành quả trên lĩnh vực khoa học tự nhiên, là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển có tính chất đột biến của tư tưởng thời kỳ này. Trong sự biến động của tư tưởng đó thì triết học Trung Quốc lại phát triển rất rực rỡ và xuất hiện nhiều nhà tư tưởng vĩ đại. Hầu hết họ đứng trên lập trường của giai cấp mình, tầng lớp mình mà phê phán xã hội cũ, xây dựng xã hội tương lai và tranh luận, phê phán, đả kích lẫn nhau. Lịch sử gọi đây là thời kỳ “Bách gia chư tử”, “Bách gia tranh minh”. Đây là giai đoạn mở đầu cho lịch sử tư tưởng Trung Quốc, nó có ngôn ngữ và ý nghĩa đặc biệt. Thời kỳ này đánh dấu sự ra đời của Nho giáo do Khổng Tử sáng lập, mà Mạnh Tử được xem là bậc “Á thánh” của hệ tư tưởng này. Mạnh Tử là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất, có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ và cho đến cả ngày nay, đặc biệt là “học thuyết Nhân chính” của ông. Phạm trù “Nhân chính” của Mạnh Tử chứa đựng một nội dung rất lớn, mà hầu như mọi cuốn sách về lịch sử triết học Trung Quốc đều đề cập đến. Phải nói rằng, loại trừ những yếu tố duy tâm thần bí thì phạm trù “Nhân chính” của Mạnh Tử chứa đựng nhiều yếu tố đạo đức tích cực, hướng con người tới sự thống nhất chân - thiện - mỹ. Chúng ta đang sống trong một thời đại mà trên lĩnh vực tư tưởng, sự nối tiếp giữa quá khứ và hiện tại, sự giao lưu giữa Đông và Tây trở nên cấp thiết. Chính vì thế, việc đánh giá vai trò của Nho giáo nói chung, phạm trù “Nhân chính” của Mạnh Tử nói riêng, trong lịch sử tư tưởng và ảnh hưởng của nó trong xã hội ngày nay có một ý nghĩa to lớn. Học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử ra đời ở thế kỷ thứ IV trước công nguyên và được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ II trước công nguyên cùng với sự xâm lược của nhà Nam Hán. 2 Trải qua hơn hai nghìn năm trên đất Việt, những đánh giá về Nho giáo, về học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ lịch sử có khác nhau. Sự đánh giá khác nhau biểu hiện ở sự đánh giá của những giai cấp, những tầng lớp khác nhau trong xã hội: có lúc nó được ngợi ca lên tận mây xanh, nhưng lại có lúc nó bị hạ nhục đến ê chề. Có lúc, xuất hiện những quan điểm vừa phê phán vừa ca ngợi, vừa chỉ ra những mặt tích cực lẫn những mặt tiêu cực của hệ tư tưởng này. Nho giáo vào Việt Nam từ rất sớm, nhưng phải đến cuối thế kỷ XIV nó mới thực sự phát triển. Từ cuối thế kỷ XIV đến thế kỷ XIX, Nho giáo là hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam, cho đến nay ít nhiều còn ảnh hưởng đến đời sống xã hội và con người Việt Nam. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải có cách nhìn nhận, đánh giá khách quan về hệ tư tưởng Nho giáo nói chung, học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử nói riêng, chỉ ra những hạn chế, nhược điểm để tránh mắc phải; vạch ra những điểm tích cực để tiếp thu, kế thừa nhằm phục vụ thiết thực cho sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nho giáo là một trong những hệ tư tưởng chủ đạo của dân tộc Việt Nam cho đến khi Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Trong sự phát triển của đất nước, Nho giáo đã chi phối tương đối lớn đối với đời sống xã hội và con người Việt Nam. Đặc biệt trên lĩnh vực chính trị, học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử đóng vai trò quan trọng trong chính sách cầm quyền của nhiều nhà lãnh đạo trong lịch sử Việt Nam. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, quan điểm đề cao vai trò quần chúng nhân dân, xem quần chúng nhân dân là yếu tố quyết định của lịch sử, đã được biểu hiện xuyên suốt từ Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi đến Hồ Chí Minh. Đường lối chính trị của các nhà tư tưởng này dựa trên nền tảng nhân nghĩa, “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, “nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm của”, trên cơ sở đó mà thực hiện công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng quốc gia vững mạnh qua các thời kỳ lịch sử Việt Nam. Đỉnh cao nhất của tư tưởng này chính là quan điểm “lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh và của Đảng ta, trên cơ sở lợi ích và nguyện vọng của quần chúng nhân dân để thực hiện đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội. Đây chính là một nội dung rất có giá trị vẫn còn ý nghĩa trong thời đại hiện nay. 3 Ngày nay, Nho giáo ở Việt Nam đã trở thành quá khứ, nhưng những mặt tích cực trong học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử vẫn được Đảng và Nhà nước ta chắt lọc kế thừa, bởi nó là sự biểu hiện tư tưởng “nhân nghĩa” trên lĩnh vực chính trị, thiên về đường lối chính trị - đức trị, giáo dục. Hiện nay, càng rất cần phải có cái nhìn khách quan, khoa học về học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử, chỉ ra những hạn chế, tiêu cực của học thuyết này, đồng thời cũng thấy được những ảnh hưởng tích cực, tiến bộ đối với một số nhà tư tưởng tiêu biểu trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, và sự góp phần của nó trong xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh mang đậm tính nhân văn là việc làm rất cần thiết. Đó chính là lý do mà tác giả chọn đề tài luận văn thạc sĩ khoa học triết học của mình là: “Học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử và sự ảnh hưởng đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XV”. Đây là một đề tài khó và cho đến nay chưa có một tác giả nào đi chuyên sâu vào nghiên cứu học thuyết “Nhân chính” về lĩnh vực này. Do đó, mặc dù là học viên năm cuối sắp tốt nghiệp, nhưng tác giả thấy còn rất khó khăn. Tuy nhiên, được sự giúp đỡ động viên của các thầy cô giáo và bạn bè đồng nghiệp, tác giả vẫn mạnh dạn chọn đề tài này với hy vọng hiểu biết thêm về hệ tư tưởng Nho giáo và nhất là học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử, để từ đó góp một phần nhỏ sự hiểu biết của mình vào việc nghiên cứu đề tài hấp dẫn có ý nghĩa này. II. Tổng quan vấn đề nghiên cứu Trong nghiên cứu lịch sử tư tưởng có liên quan đến nội dung của đề tài, đã có một số tác giả đề cập tới với những khía cạnh khác nhau. Nguyễn Đăng Duy [chủ biên] với “Nho giáo với văn hóa Việt Nam”, Nxb Hà Nội, 1998, mới nêu được ý kiến khẳng định Nho giáo là một thành tố cấu thành của lịch sử tư tưởng Việt Nam, nhưng vẫn chưa làm rõ được “học thuyết Nhân chính” của Mạnh Tử, mà chỉ bàn ở khía cạnh đạo đức Nho giáo với văn hoá Việt Nam mà thôi. Cao Xuân Huy với “Tư tưởng Phương Đông - Gợi những điểm nhìn tham chiếu”, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1994, từ trang 465 đến 480 đã gợi ý rất đắt cho việc nghiên cứu học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử: Chế độ chính trị lý tưởng; Chế độ kinh tế lý tưởng; Lương tri, lương năng; Tứ 4 đoan; Giữ gìn lương tâm; Quả dục; Nuôi dạ khí; Bồi dưỡng khí hạo nhiên; Chữ trung và chữ quyền... Vũ Khiêu [chủ biên] với “Nho giáo xưa và nay”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990, các tác giả mới trình bày tổng quát về sự ra đời và phát triển, giá trị của Nho giáo trong xã hội ta ngày nay như: Nho giáo - sự ra đời và phát triển; Hiện đại đối thoại với Nho giáo; Nho giáo và kinh tế; Khổng giáo và gia đình; Nho giáo và văn học trung đại Việt Nam; Nho giáo và văn hoá dân gian Việt Nam; Giá trị của Nho giáo trong xã hội ta ngày nay;…, mà chưa bàn đến “học thuyết Nhân chính” của Mạnh Tử. Phùng Quý Sơn, Trần Kiết Hùng với “Mạnh Tử, linh hồn của nhà Nho”, Nxb Đồng Nai, 1995, tuy không tập trung, nhưng đã đề cập đến nhiều khía cạnh liên quan đến “học thuyết Nhân chính” của Mạnh Tử: Xuất kiến Lương Huệ Vương “Vua cần gì phải nói điều lợi, hãy nói việc nhân nghĩa mà thôi”; Không ai địch nổi người nhân đức “Chỉ cần đất vuông vức trăm dặm, thực hành chính trị nhân đức có thể khiến thiên hạ thuần phục”, “Bệ hạ lấy chính trị nhân đức mà đến với họ, hỏi có nước nào có thể chống lại được? Có thể nói: người có nhân đức thì vô địch. Xin bệ hạ giữ vững lòng tin”; Bậc trượng phu nhân chính; Đối thoại giữa vương đạo và bá đạo; Kiên trì chủ nghĩa nhân đạo; Con người vốn tính thiện... Lê Sĩ Thắng [chủ biên] với “Nho giáo tại Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, các tác giả đã bàn một cách khái quát về ảnh hưởng của Nho giáo tại Việt Nam, trong đó đã chỉ ra được một số khác biệt giữa Nho giáo và Nho giáo ở Việt Nam trong tiến trình lịch sử Việt Nam trên từng lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, làm rõ mối quan hệ giữa Nho giáo với tư tưởng, phẩm cách của những nhân vật lịch sử Việt Nam,.. nhưng cũng chưa bàn về “học thuyết Nhân chính” của Mạnh Tử. Nguyễn Đăng Thục với “Lịch sử triết học phương Đông”, tập 2, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1991, từ trang 37 đến 81 đã trình bày một cách khái quát những nội dung chính trong tư tưởng triết học của Mạnh Tử về: Triết học tâm linh, Thuyết tính thiện, Luân lý học, Triết học chính trị, đồng thời nêu ra một số ảnh hưởng của Mạnh Tử đến các trào lưu tư tưởng đương thời. Thông qua những nội dung tư tưởng này, tác giả đã đề cập một số nội dung tư tưởng liên quan đến nhân chính, nhưng với tư cách là phạm trù “Nhân chính” và “học thuyết Nhân chính” của Mạnh Tử thì chưa được bàn đến. 5 Nguyễn Tài Thư [chủ biên] với “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, từ trang 33 đến 57, các tác giả đã khẳng định Nho giáo là thành tố quan trọng của sự ảnh hưởng bởi các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam, trên các phương diện: Con người trong Nho giáo là con người có và phải có ý thức về gia đình, về cộng đồng, về quốc gia, về sự tiến hoá văn minh do các thế hệ kế tiếp nhau tạo nên;Yêu cầu phải biết tôn trọng sự sống và giá trị sự sống của con người là một giá trị toàn nhân loại thứ hai của Nho giáo; Một giá trị toàn nhân loại khác của Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong ý thức và tâm thức người Việt là chấp nhận khát vọng hạnh phúc của con người và tìm mọi cách đáp ứng khát vọng ấy. Ở giá trị thứ ba, các tác giả chỉ ra nhiều quan niệm của Mạnh Tử về “hằng sản”, “hằng tâm”, “nghĩa”, “lợi”, nhưng vẫn chưa bàn đến học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử với tư cách là một thành tố quan trọng trong sự ảnh hưởng ấy. Nói chung, học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử và sự ảnh hưởng của nó trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, đến nay vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Bởi vậy, đề tài: “Học thuyết nhân chính của Mạnh Tử và sự ảnh hưởng đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XV ”, hiện nay là một chủ đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần được làm sáng tỏ một cách khách quan, khoa học và phải được tiếp tục nghiên cứu phát triển. III. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 1. Mục đích của luận văn Bước đầu rút ra kết luận khoa học về những đóng góp tích cực, những hạn chế của “học thuyết Nhân chính” trong quá khứ và hiện tại của lịch sử tư tưởng Việt Nam, đặc biệt là đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XV, góp phần xây dựng quan niệm khách quan, khoa học khi đánh giá “học thuyết Nhân chính” nói riêng, Nho giáo và triết học Trung Quốc cổ đại nói chung trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước hiện nay. 2. Nhiệm vụ của luận văn 1.Trình bày một cách khái quát phạm trù “Nhân” của Khổng Tử. 2.Chỉ rõ phạm trù “Nhân” của Mạnh Tử là sự phát triển phạm trù “Nhân” của Khổng Tử theo hướng duy tâm hóa, nhưng hàm chứa những điểm tiến bộ. 6 3.Chỉ rõ sự kết hợp của Mạnh Tử từ phạm trù “Nhân” và “Nghĩa” thành phạm trù “Nhân nghĩa”. 4.Trình bày nội dung học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử là sự biểu hiện của tư tưởng “Nhân nghĩa” trên lĩnh vực chính trị. 5.Chỉ ra sự ảnh hưởng của học thuyết Nhân Chính của Mạnh Tử đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XV [qua một số nhà tư tưởng Việt Nam tiêu biểu : Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông]. IV. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận văn này là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề con người, về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Đặc biệt là tư tưởng “trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”; cá nhân và xã hội là sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc và lợi ích nhân loại và mối quan hệ biện chứng giữa quần chúng nhân dân với những vĩ nhân-lãnh tụ . 2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp: Lịch sử và logic, so sánh đối chiếu, phân tích, tổng hợp thông qua các tài liệu hiện có về Mạnh Tử mà tác giả được tiếp cận. Luận văn sử dụng các đánh giá của các nhà khoa học về Nho giáo và xem đó là kim chỉ nam cho mình. Phương pháp xuyên suốt của luận văn là vận dụng phương pháp biện chứng duy vật vào việc nhận thức các vấn đề chính trị-xã hội, đạo đức. V. Ý nghĩa của luận văn Luận văn góp phần tổng hợp sự đánh giá khách quan, khoa học về “học thuyết Nhân chính” của Mạnh Tử; góp phần chỉ ra những ảnh hưởng của “học thuyết Nhân chính” của Mạnh Tử đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam, đặc biệt là một số nhà tư tưởng Việt Nam tiêu biểu ở thế kỷ XV và sự kế thừa có chọn lọc của Đảng và nhà nước ta về học thuyết này. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy các học phần Lịch sử Triết học phương Đông có liên quan đến Nho giáo ở Trung Quốc cổ đại nói riêng và triết học Trung Quốc nói chung, đặc biệt là việc 7 nghiên cứu về Mạnh Tử, và cho những ai quan tâm nghiên cứu đến vấn đề nêu trên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài do có nhiều lý do khách quan, tác giả còn có những hạn chế nhất định trong nội dung của luận văn. Tác giả rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy cô, các bạn đồng nghiệp và những ai quan tâm về vấn đề này, để việc nghiên cứu của tác giả ngày càng tốt hơn. VI. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo; Luận văn gồm có 2 chương, 6 tiết . Chương 1: Học thuyết Nhân chính của Mạnh Tử 1.1.Từ phạm trù“Nhân”của Khổng Tử đến phạm trù“Nhân nghĩa” của Mạnh Tử 1.2. Nội dung cơ bản của học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử Chương 2: Ảnh hưởng của học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XV [qua một số nhà tư tưởng Việt Nam tiêu biểu] 2.1. Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội - lịch sử Việt Nam thế kỷ XV 2.2. Ảnh hưởng của học thuyết “Nhân chính” trong tư tưởng của Nguyễn Trãi 2.3. Ảnh hưởng của học thuyết “Nhân chính” trong tư tưởng của Lê Thánh Tông 2.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu học thuyết “Nhân chính” của Mạnh Tử đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam. 8 CHƯƠNG 1 HỌC THUYẾT NHÂN CHÍNH CỦA MẠNH TỬ 1.1. TỪ PHẠM TRÙ “NHÂN” CỦA KHỔNG TỬ, ĐẾN PHẠM TRÙ “NHÂN NGHĨA” CỦA MẠNH TỬ 1.1.1.1. “Nhân” trong quan niệm của Khổng Tử Khổng Tử sinh vào mùa Đông tháng mười năm Canh Tuất, là năm thứ hai mươi mốt đời vua Linh Vương nhà Chu, tức vào năm 551 trước công nguyên. Ông sinh ra tại nước Lỗ trong một gia đình quý tộc nhỏ đang sa sút thuộc làng Xương Bình, huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông ngày nay. Mẹ của ông là bà Nhan Thị, cha là Thúc Lương Ngột là một vị quan nhỏ. Ngay từ nhỏ, Khổng Tử đã nổi tiếng là người siêng năng, học giỏi và thích chơi trò cúng tế. Thuở đó, quê hương ông là nơi trụ cột, bảo tồn được nhiều di sản văn hóa cũ của nhà Chu. Khổng Tử – người sáng lập ra Nho giáo – muốn đem tài đức của mình để giúp vua lập lại trật tự kỷ cương trong xã hội, tìm ra phương pháp để cứu đời, cứu người, vì sự nghiệp “bình thiên hạ”. Điểm lại những cái mốc trên đường phát triển của con người mình, Khổng Tử nói: “Ta mười lăm tuổi thì có chí rõ ràng hướng vào việc học, ba mươi tuổi thì vững vàng chắc chắn, bốn mươi tuổi thì không mơ hồ lầm lẫn, năm mươi thì biết mệnh trời, sáu mươi thì tai thuận [nghe qua là biết rõ], bảy mươi thì theo ý muốn trong lòng không hề chệch ra ngoài nề nếp [Ngô thập hữu ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhĩ thuần, thất thập nhi từng tâm sở dục di cư – Luận ngữ Vi chính] [tr.41, 20] . Đứng trước thời đại “Vương đạo suy vi”, “Bá đạo” đang nổi lên lấn át “Vương đạo” của nhà Chu, trật tự lễ pháp cũ của nhà Chu đang bị đảo lộn, ông than rằng “vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo cha, con không phải đạo con”. Trên lập trường của bộ phận giai cấp tiên tiến của giai cấp quý tộc Chu, ông chủ trương lập lại pháp chế của nhà Chu, với một nội dung mới cho phù hợp. Ông mở trường dạy học, đi chu du khắp các nơi trong nước, tranh luận với các phái khác để tuyên truyền lý tưởng của mình, nhằm mục đích cải biến trật tự xã hội đó bằng con đường cải lương, cải cách [tr.13-23, 22]. Tư tưởng đạo đức-chính trị của Khổng Tử là sự kế thừa tư tưởng của Văn Vương, Chu Công là sự phát huy tư tưởng của thời Tây Chu để mong lập 9 lại kỷ cương nhà Chu đã suy vi lúc bấy giờ. Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, ông xây dựng nên học thuyết về Nhân – Lễ – Chính Danh. “Nhân”, là hạt nhân trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Theo ông “Nhân” là nội dung, “lễ” là hình thức của “Nhân”, và “Chính Danh” là con đường để đạt đến điều “Nhân” [Sửa mình, khôi phục điều lễ là người Nhân]. Theo Khổng tử: “Quân tử lấy Nhân làm thể là đủ làm trưởng thành cho người, hợp các cái tốt đẹp là đủ làm cho hợp lễ, lợi cho vạn vật là đủ làm hòa cái nghĩa, biết cái trinh. Chính mà cố giữa là đủ làm gốc cho mọi sự” [Quân tử thể Nhân túc dĩ tưởng Nhân, gia hộ túc dĩ hợp lễ, lợi vật túc dĩ hào nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự] [tr 80, 22]. Người quân tử phải giữ đúng đạo người với bốn đức: Nhân, nghĩa, lễ, trí. Trong đó “Nhân” đứng đầu các điều thiện, “lễ” là hội hợp được các điều tốt đẹp, “nghĩa” là định rõ các phận cho hài hòa về lợi của vạn vật, “trí” là phải giữ vững cái chính là gốc cho mọi sự. Chữ “Nhân” [ =] không chỉ người [ ] mà là một chữ ghép từ chữ Nhân đứng [ ] với chữ nhị [=] nhằm để nói lên cái đức và tác dụng bản chất chung của mọi người. “Nhân” vừa là “thể” tự nhiên, yên lặng, nhưng có sẵn cái năng lực sinh ra các đức tính tốt, nó chính là hạt Nhân là nguồn gốc, là động lực của mọi hành động và ý thức. “Nhân” đồng thời là “dụng” dễ cảm ứng, lúc nào cũng thấu suốt vạn vật, làm việc gì cũng đúng là thích hợp. “Nhân” không chỉ riêng một đức tính nào mà nó chỉ mọi đức tính, người có “Nhân” đồng nghĩa với người hoàn thiện nhất, nên “Nhân” là nghĩa rộng nhất của đạo làm người. Đạo làm người có hàng ngàn hàng vạn điều, nhưng chung quy lại là những điều đối với mình và đối với mọi người, nên “Nhân” có thể hiểu là cách cư xử với mình và cư xử với người. “Nhân” theo Khổng Tử có rất nhiều nghĩa. Khi trả lời thế nào là “Nhân”, ông đã tùy vào trình độ học vấn và tư cách của từng người mà trả lời có khác nhau. Chung quy lại có thể hiểu “Nhân” của Khổng tử theo mấy nghĩa sau: Thứ nhất: “Nhân” là yêu người [ái nhân], yêu người là hạt nhân của tư tưởng Khổng Tử. Học trò của Khổng Tử là Phan Trì hỏi thầy thế nào là “Nhân”, Khổng Tử trả lời đó là “yêu người” [ái nhân]. “Yêu người” là “điều gì mình không muốn thì chớ đem áp dụng cho người khác” [kỷ sở bất dục, vật thi ư Nhân], “mình muốn lập thân thì cũng giúp người khác lập thân, mình muốn thành đạt thì cũng phải giúp người khác thành 10 đạt” [kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân]. Thiên Hương Đảng trong Luận ngữ kể, từ trong triều trở về nghe nói chuồng ngựa bị cháy, ông hỏi “có ai bị thương không?” mà không hỏi “ngựa có việc gì không?” là một biểu hiện thương người của ông. “Yêu người” ở Khổng Tử là yêu mọi người kể cả yêu người lao động. Quan điểm của Khổng Tử là những gì hại đến người thì ngăn lại, còn của cải có thể làm ra được. Ngay trong “Lễ ký - Đàn cung”, Khổng Tử hết sức phản đối việc dùng hình thù người để chôn thay cho việc chôn sống người. Theo ông, việc làm đó là việc làm bất nhân. “Nhân giả ái nhân” còn bao hàm cả việc quan tâm và yêu mến người dân, là “bố thí rộng rãi” và “cứu giúp” nhiều người. Trong Luận ngữ, khi trả lời Tử Cống, Khổng Tử đã coi “có bố thí rộng rãi cho dân, nhờ đó có thể giúp được nhiều người” thì không chỉ là “Nhân” mà là “thánh nhân” và việc đó thì Nghiêu - Thuấn cũng còn có lỗi”. Khổng Tử là người đã đề ra tư tưởng phải coi trọng sức dân. Trong xã hội đương thời, ông là người đã thẳng thắn khuyến cáo những kẻ có chức quyền phải “bớt tiêu dùng và yêu người” [tiết dụng nhi ái nhân], phải “sai khiến dân đúng thời vụ” [sử dân dĩ thời]. Quan niệm này là kim chỉ nam cho mọi triều đại muốn trở thành người chủ thực sự của dân. Ông cũng là người đưa ra tư tưởng: trước tiên làm cho dân giàu, sau đó giáo dục dân [tiên phú, hậu giáo]. Tư tưởng này thể hiện rất rõ trong câu trả lời của ông đối với người học trò đánh xe và theo hầu ông. Khi thấy dân nước Vệ đông, Nhiễm Hữu hỏi thầy: “Dân đã đông thì làm gì?”. Ông nói: “Làm cho họ giàu lên!. Nhiễm Hữu lại hỏi: “Dân đã giàu lên rồi thì làm gì nữa?”. Ông trả lời: “giáo hóa dân – Luận Ngữ, Dương Hóa”. Ở đây, ta thấy tư tưởng của Khổng Tử muốn giáo dục dân trước hết phải giúp dân có một đời sống kinh tế nhất định. Và về giáo hóa dân đối với ông thì “ai cũng có thể dạy được [hữu giáo vô loài] và dạy người không biết mệt” [hối nhân bất quyện]. Thứ hai: “Nhân” là phương châm xử thế mang đầy tính chất nhân đạo chủ nghĩa, làm cho con người gắn bó với nhau, cá nhân gắn bó với cộng đồng; làm cho con người có niềm vui trong cuộc sống, thấy hết ý nghĩa, vai trò của mình trong cộng đồng, trong xã hội. “Nhân” theo Khổng Tử là: “ra cửa phải nghiêm trang như gặp khách quý; sai khiến dân thì phải thận trọng như làm lễ tế lớn, điều gì mình không muốn người làm cho mình thì không 11 nên làm cho người” [Xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế, kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân – Luận Ngữ, Nhan Uyên]. Theo Khổng Tử: “làm được năm đức ở trong thiên hạ là Nhân: Cung, Khoan, Tín, Mẫn, Huệ. Cung kính người thì không bị khinh nhờn, Khoan hậu người thì được lòng người, thành tín thì được người ta tín nhiệm, cần mẫn thì làm được nhiều việc, tứ huệ người thì sử dụng được người” [Năng hành ngũ giả ư thiên hạ nhân hĩ. Viết cung, khoan, tín, mẫn, huệ. Cung tắc bất hĩ khoan tắc đắc chúng, tín tắc nhân nhiệm yên, mẫn tắc hữu công, huệ tắc túc dĩ sử nhân – Luận Ngữ, Dương Hóa]. Như vậy “Nhân” là yêu người như yêu mình – Đây là nguyên tắc chung. Suy bụng ta ra bụng người, cái gì mình không muốn thì chớ làm với người, mình lập nghiệp thì phải giúp người lập nghiệp. Yêu mến và thương xót những người không được như mình. Đối với người lao động, tàn tật, già cả, yếu đuối là phải thông cảm, tôn trọng và yêu mến. Trong trị nước thì chọn người hiền tài mà trị nước, đừng vì thân hay sơ. Khổng Tử nói: “Cố nhân có câu: nếu có người thiện liên tục trị nước 100 năm thì có thể khiến kẻ tàn bạo thuần phục mà bỏ được hình phạt chém giết”. Lời ấy rất đúng – Luận Ngữ, Dương Hóa]. Phải kính già nhường già: “người chống gậy ra trước, mình ra sau” [Trượng giả xuất tư xuất hĩ. Luận ngữ – Hương đảng]. Ông cũng nói: “ở trên không khoan dung, làm lễ mà không kính cẩn, gặp việc tang mà không đau thương, đối với người đó ta còn biết như thế nào đây?” [cư thượng bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang bất ai, ngô hà dĩ quan chi tai?. Luận ngữ – Bát giật]. Ông là người chủ trương: chọn người hiền tài mà trị nước; đối với người già yếu thì phải có thái độ tôn trọng, đúng mực, ân cần; đối với nhân dân phải tôn trọng, cần mẫn, dưỡng, giáo và sẵn sàng mang lại ân huệ cho họ; giữa người với người phải có sự gắn bó nhau theo tinh thần “tín là của quý của nước, là điều mà dân phải gìn giữ” [tín, quốc chi bảo dã, dân chi sở tế dã]. Đây không chỉ là mong muốn chủ quan của Khổng Tử, mà chính là từ phản ánh yêu cầu khách quan của thời đại với một trình độ đã đến lúc con người cần phải giữ điều tín và tôn trọng lẫn nhau. Thứ ba: “Nhân” theo Khổng Tử là tuân thủ kỷ cương, luật lệ “sửa mình theo lễ là Nhân” [Khắc kỷ phục lễ vi nhân – Luận Ngữ, Nhan Uyên XII]. Về điều này, có người cho lễ của Khổng tử là lễ nhà Tây Chu, lễ của giai 12 cấp thống trị. Thật ra, lễ của Khổng Tử không chỉ dừng ở đó. Lễ của ông còn là kính trên nhường dưới. Theo ông: “Hiếu của con cái đối với cha mẹ không chỉ là lòng thành kính, chỉ nuôi cha mẹ không thôi thì không thể gọi là hiếu, ví như giống chó, giống ngựa cũng có người nuôi. Nuôi cha mẹ không thành kính thì có khác gì nuôi chó ngựa”[tr.61, 3]. Việc thực hành lễ là phải thành kính. Ông nói: “Ngày nay người ta nuôi nấng chăm sóc cha mẹ là thờ cha mẹ, nhưng đối với chó và ngựa người ta cũng nuôi nấng chăm sóc nó. Nếu như đối với cha mẹ mà không kính thì sự săn sóc đối với cha mẹ có khác gì đối với việc săn sóc nuôi nấng chó ngựa” [tr.9, 34]. Dù cái lễ của ông là điều hòa mâu thuẫn giai cấp, khuyên người nghèo phải an phận thủ thường [bần nhi vô oán; lễ chi dụng, hòa vi quý; an bần nhi lạc] đi chăng nữa, thì điều vừa nêu trên với việc ông khuyên kẻ trên phải tôn trọng người dưới: bước ra cửa lúc nào cũng phải chỉnh tề như gặp khách quý, sai khiến dân một việc gì cũng phải thận trọng, thì “khắc kỷ phục lễ vi nhân” không chỉ là lễ của Tây Chu, của giai cấp thống trị, mà lễ ở đây còn là phải sống cho phải đạo người, phải bỏ hết mọi tư tâm, tư ý để đối xử với người như đối xử với mình, và lúc nào cũng kính cẩn, thân ái với nhau. Để cho mọi người gần gũi nhau, quan hệ giữa người với người được bền vững, Khổng Tử cho rằng con người phải có lòng tin lẫn nhau. Sự thất tin với nhau ông không tài nào hiểu được: “Người mà không có đức tin thì không biết làm như thế nào. Xe lớn mà không có nghê, xe nhỏ mà không có ngột thì không biết đi như thế nào” [Nhân nhi vô tín, bất tri kỳ khả dã. Đại xa vô nghê, tiểu xa vô ngột, kỳ hà dĩ hành chi tai – Luận Ngữ, Vi Chính]. Chữ tín, lòng tin không chỉ là mối quan hệ giữa người với người, mà nó còn được nâng lên thành mối quan hệ giữa dân với triều chính. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm của Khổng Tử khi ông trả lời Tử Cống về phép trị dân. Khổng Tử đáp: “Lương thực đầy đủ, quân bị đầy đủ, dân tin chính quyền”. Tử Cống hỏi: “trong ba điều đó nếu bất đắc dĩ phải bỏ một điều, thì điều nào trước?”. Ông đáp: “nếu bỏ thì bỏ binh lực”. Tử Cống lại hỏi: “trong hai điều còn lại nếu bất đắc dĩ phải bỏ một điều nữa thì bỏ điều nào trước?”. Đáp: “Bỏ lương thực” từ xưa đến nay mọi người đều chết, nếu dân không tin chính quyền thì chính quyền phải đổ” [Tử Cống vấn chính. Tử viết: “Túc thực, túc binh dân tín chi hủ”. Tử Cống viết: “ Tất bất đắc dĩ như khứ ư tư tam giả, hà tiên?”. Tử viết: “Khử binh tất bất đắc dĩ nhi khử, ư tư nhị giả, hà 13 tiên?”. Tử Cống viết: “Tất bất đắc dĩ như khứ ư tư nhị giả, hà tiên?”. Tử viết: “khử thực, tự cổ giai hữu tử, dân vô tín bất lập”[Luận ngữ – Nhan Uyên]. Trong chính trị cả ba điều trên, điều nào cũng quan trọng. Mặc dù trong thời đại đó, cả ba điều trên không đảm bảo được điều nào, nhưng như thế ta thấy được trong tư tưởng của Khổng Tử, lòng tin của dân quan trọng như thế nào. “Dân tin là điều quan trọng nhất”, ông đã xem dân có vai trò quyết định sự phát triển của xã hội. Tuy có chỗ ông thể hiện tư tưởng coi thường dân “Dân học đạo thì dễ sai khiến”, “sai khiến dân đúng thời vụ”,…nhưng chính tư tưởng “dân tin” ở ông là kim chỉ nam cho sự phát triển xã hội về sau không chỉ ở Trung Quốc, mà đặc biệt hết sức tiến bộ với xã hội đương thời của ông – Xuân thu Chiến quốc – chiến tranh liên miên đã uy hiếp đời sống của dân về mọi mặt, khiến các nhà tư tưởng có tâm huyết thời ấy cũng không thể quan tâm đến dân, không thể tìm hiểu khả năng vai trò của dân, và không thể tìm ra con đường đem lại cuộc sống yên vui, hạnh phúc cho dân. Đó là nói đến tác dụng của “Nhân”. “Nhân” theo Khổng Tử không chỉ dừng ở đó, mà nó còn có ý nghĩa rộng lớn hơn với tư cách là cái bản thể yên lặng, nhưng là cái sinh ra mọi đức tính khác. Cái bản thể Nhân ấy, là cái sáng suốt, cái sức mạnh giúp cho ta cái gì cũng biết một cách dễ dàng, và làm điều gì cũng đúng với đạo trời, đạo người. Nhờ có “Nhân” mà có lòng yêu thương người, yêu thương vạn vật, mong muốn cho người và vạn vật được an lạc, sống bình đẳng bác ái, thân ái với nhau, hòa đồng với nhau. Nhờ có “Nhân” mà lòng yêu và lòng muốn những tốt đẹp cho người và vạn vật đều xuất phát một cách tự nhiên không miễn cưỡng. Chính lẽ đó, người có bản thể “Nhân” thì bao giờ cũng tự nhiên, ung dung, sáng suốt và làm gì cũng hợp lẽ, chí công, chí thiện. Chính rộng lớn như vậy, nên ngay như Nhan Hồi là bậc kỳ tài, kỳ hiền mà “bụng giữ được ba tháng không trái đạo Nhân, người khác thì chỉ được một ngày, một tháng là cùng” [Hồi giả, kỳ tâm tam nguyệt bất vi nhân, kỳ dư nhật nguyệt chí yên nhi dĩ – Luận ngữ – Ung giả VI]. Nhưng cũng vì “Nhân” là bản thể, là đạo người cho nên “Nhân” rất gần với mọi người, chỉ cần người muốn “Nhân” là sẽ có “Nhân”: “Nhân không xa nếu người muốn Nhân thì Nhân đến” [Nhân viễn hồ tai, ngã dục nhân, tự Nhân trí – Luận ngữ, Thuật Nhi VII]. 14 Tác dụng của “Nhân” là dễ cảm, dễ ứng, lúc nào cũng thấu rõ mọi sự vật, hiện tượng, tự nhiên và xã hội, con người, nên làm việc gì cũng đúng, cũng thành công. Bản thể “Nhân” là yên lặng nhưng sẵn sàng sinh ra mọi đức tính tốt, là tiêu chuẩn để phân biệt kẻ thiện, kẻ ác. Người có đạo Nhân, bao giờ cũng đầy ắp những tình cảm chân thực, nên lúc nào cũng tỏ rõ tính hiếu, đễ, trung, thứ. Kẻ bất nhân thì đầy những xảo trá, khôn khéo, lanh lẹ, bạc bẽo, không chân thực: “cương trực, nghiêm nghị, chất phác, trì độn là gần Nhân” [Cương, nghi mộc, nột, cận nhân – Luận ngữ, Tử lộ XIII]. “Nói khéo và sửa nét mặt cùng hình dáng bề ngoài là ít có nhân” [Xảo ngôn lệnh sắc tiễn hỉ nhân. Luận ngữ – Học Nhi I ]. Như thế, bản thể “Nhân” là thật thà, chất phác, tự nhiên, an vui. Còn bất nhân, thất trung là khôn khéo xảo quyệt không tự nhiên, lắm mưu mô chước quỷ. “Nhân” vừa gần gũi, vừa thấp để ai cũng đến được. Nhưng “Nhân” cũng rất sâu sắc, rộng lớn và cao xa mà ngay cả Khổng Tử cũng phải thốt lên: “nếu có thánh và bậc nhân thì ta đâu giám” [Nhược thánh dữ nhân, tắc ngô khởi cảm – Luận ngữ, Thuật Nhi VII]. Bởi thế, việc học của Khổng Tử đều tập trung tất cả ở chữ “Nhân”: “người quân tử trong khoảng bữa ăn cũng không trái đạo nhân, vội vàng cũng theo Nhân, hoạn nạn cũng theo Nhân” [Quân tử vô dụng thực chi gian vi nhân, tháo thứ tất ư thị, điều bái tất ư thị – Luận ngữ – Lý Nhân VI]. “Nhân” là căn bản của mọi hành vi, đạo đức, là gốc của người quân tử: “Người quân tử cốt ở gốc. Gốc lập rồi đạo mới phát sinh. Tình cha con, anh em chẳng phải gốc của đạo làm người Nhân đấy ư?” [Quân tử vụ bản, bản lập nhi đạo sinh. Hiếu đễ dã giả, kỳ vi nhân chi bản dư? Luận ngữ - Học Nhi]. Đạo “Nhân” bắt đầu từ gia đình, tình cha con và suy ra đến tình nhân loại. Ông vừa chú trọng quan hệ đạo đức cá nhân, nhưng đồng thời đề cao một đạo “Nhân” đòi hỏi người ta phải làm trọn đạo người. “Nhân” là nhân cách. Tóm lại, “Nhân” là học thuyết trung tâm của Khổng Tử. “Nhân” vừa là tác dụng vừa là bản thể, được thể hiện trên nhiều phương diện, và ứng dụng với các tầng lớp khác nhau. Có thể nói cốt lõi của “Nhân” là thương người yêu người. Với kẻ thống trị “Nhân” buộc họ thấy lợi phải nghĩ đến nghĩa, lấy nghĩa làm cơ sở để có thái độ, hành động đúng, thích hợp với lợi. Với người khác “Nhân” đòi hỏi phải yêu người như yêu mình, cái gì mình muốn thì 15 muốn cho người, cái gì mình không muốn thì đừng muốn cho người. Với dân, “Nhân” đòi hỏi phải tin dân, thương dân, tôn trọng dân, phải quan tâm giúp đỡ và thông cảm cho dân. Với bản thân, “Nhân” đòi hỏi phải có thái độ cung kính, khoan dung, sẵn sàng giúp người… “ăn ở có lễ độ, làm việc thì kính trọng, cùng với người thì hết lòng” [Cư sự cung, chấp sự kính, dữ Nhân trung] [tr.11, 34]. “Nhân” trọng yếu như thế nên Khổng Tử dạy người chủ yếu là dạy đạo “Nhân”. “Nhân” là đích của tu dưỡng. Đã đạt “Nhân” thì làm gì cũng đúng, cũng hợp đời hợp đạo, an vui và tinh thông mọi điều. “Nhân” rất rộng, người học không có trí học đạo “Nhân” thì không học được. [Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả dĩ vi đạo – Trung dung]. Đạo nhân gắn bó mật thiết với bản tính con người, nên rất uyên thâm, dẫu người tài trí cũng không biết hết được, nhưng người thường vẫn có thể theo được. Khổng Tử rất tin ở cái đạo rất giản dị mà cao xa, rộng rãi, bao quát cả vũ trụ, ngoài không có gì rộng lớn hơn, trong không có gì nhỏ bé hơn ấy là chí thiện, chí mỹ. Đạo “Nhân” cốt cầu lấy cái vui trong sinh hoạt ở đời, điều hòa với mọi lẽ của tự nhiên, xã hội, trong người thư thái không bị ngoại cảnh liên lụy. Đạo “Nhân” của Khổng Tử dạy người cầu lấy cái vui ở đời, lúc nào trong lòng cũng thản nhiên vui vẻ, không lo sợ, buồn rầu. Cái gì người ta vui cười, thì mình vui cười, xong rồi thôi, không vướng bận: “gặp cái gì cảm đến thì ứng ngay, gặp cảnh ngộ nào cũng vui vẻ được” [Tùy cảm nhi ứng, tùy ngộ nhi an]. Cách sống như vậy ở đời không phải ai cũng làm được. Đã có nhiều người chê Khổng Tử hạn chế ở chỗ phân biệt quân tử với tiểu nhân trong đạo Nhân, “Quân tử có thể bất nhân. Tiểu nhân không có nhân làm sao mà mất nhân được” [quân tử nhi bất nhân giã hữu hỉ phù? Vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả giã. Luận ngữ – Hiến văn XIV]. Quân tử là người có địa vị tôn quý, là giai cấp thống trị và là đàn ông. Tiểu nhân là thường dân không có địa vị trong xã hội, là nhân dân lao động nói chung, đặc biệt là đàn bà. Đây là tư tưởng coi thường nhân dân lao động và phụ nữ của Khổng Tử. Quả thật Khổng Tử có nói: “quân tử học đạo thì yêu người, tiểu nhân học đạo thì dễ sai khiến” [Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dị sự giã” – Luận ngữ, Dương Hóa XVII]. Nhưng thật ra trong phân biệt quân tử, tiểu nhân của Khổng Tử không dừng lại ở đó. Quân tử là người có đức hạnh cao quí, tiểu nhân là kẻ có đạo đức thấp hèn, đó mới là quan điểm chính 16 của Khổng Tử. Tức là dù người có địa vị xã hội hay không có địa vị xã hội, là vua quan hay thường dân cũng đều có thể là quân tử, cũng có thể là tiểu nhân. Chính lẽ đó quân tử với đức Nhân của Khổng Tử như đã trình bày ở trên không phải không có ý nghĩa tích cực trong xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ ngày nay ở Việt Nam. 1.1.2. “Nhân” trong quan niệm của Mạnh Tử Thời Chiến Quốc đã xuất hiện nhiều trường phái triết học đại diện cho lợi ích của các giai cấp trong xã hội. Mạnh Tử là một trong những triết gia lớn nhất thời đó, là người chủ trương chống lại thuyết “Kiêm ái” của Mặc gia và chủ nghĩa tự nhiên “Vô vi”, “Vị ngã” của Đạo gia, là người phát triển tư tưởng triết học chính trị - đạo đức của Khổng Tử theo hướng duy tâm chủ nghĩa. Vào khoảng những năm 370 TrCN – năm đầu Chu Liệt Vương, cách nay hơn hai nghìn ba trăm bảy mươi năm, Mạnh Tử ra đời tại vùng Ấp Trâu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Cha mẹ đặt tên ông là Kha. Nhà Mạnh Tử là đời sau của dòng họ Mạnh Tôn, quý tộc nước Lỗ. Mạnh Tôn là con của Lỗ Hoàn Công, một trong tam hoàng nắm quyền lớn trong triều. Theo quan điểm của hậu thế sau này cho rằng phái nhà Mạnh Tử kể đã sa sút nên mới chuyển về vùng Ấp Trâu. Mạnh Tử sinh ra ở vùng Ấp Trâu trở thành người nước Trâu [tên của nước Chu trước đây]. Theo Sử ký Tư Mã Thiên: “Mạnh Tử sống vào khoảng năm 372 đến năm 289 trước Công nguyên – là người theo phái Nho gia của Tăng Tử nước Lỗ. Ông là học trò của Tử Tư – Khổng Cấp – cháu nội của Khổng Tử”. Mạnh Tử là con trai của Khích Công và Cừu Thị. Khi Mạnh Tử lên ba tuổi thì cha qua đời, nhưng ông được mẹ nuôi dưỡng, giáo dục lễ nghĩa rất chặt chẽ và đến nơi đến chốn. Bà Mạnh là một tấm gương sáng cho việc giáo dục lễ nghĩa đối với con cái. Ngay từ lúc mang thai bà đã thực hiện “thai giáo”. Kể cả khi Mạnh Tử lấy vợ bà cũng không ngừng bảo ban chỉ giáo cho con. Theo Sử Liệt Nữ thì bà Mạnh đã ba lần chuyển nhà, bởi ban đầu nhà bà ở trong những môi trường mà bà cho rằng “chẳng hợp với con bà”. Cuối cùng bà Mạnh quyết định chuyển nhà đến trường học, ở đây Mạnh Kha học được lễ nghĩa khiêm nhường của bậc trưởng giả, bắt chước theo giọng ngâm nga đọc bài của nhóm học sinh. Khi đã vào lớp một, có lúc Mạnh Kha học hành ngày càng sa sút, bà Mạnh giật phắt tấm vải đang dệt và cắt ngang. Cậu Mạnh ngơ 17 ngác, bà giải thích: “con đi học chẳng yên, giữa đường bỏ dở, giống như mẹ cắt đứt tấm vải cuối cùng trở thành đồ vứt đi…”. Sau lần đó ý chí học tập của cậu Mạnh ngày càng lớn làm nền tảng vững chắc để trở thành “Á thánh” sau này. Mạnh Tử là người tiếp tục phát triển tư tưởng của Khổng Tử theo hướng duy tâm. Mặc dù không được trực tiếp theo học Khổng Tử, nhưng ông luôn tâm niệm, Khổng Tử là bậc thầy của mình. Ông nói “Tuy ta không được trực tiếp làm môn sinh của Khổng Tử, nhưng những điều người truyền lại cho đời, ta đều biết. Thế là ta cũng là học trò của người rồi, và người là thầy của ta rồi”. Như cỏ cây được tắm nước trời, Mạnh Tử ca ngợi rằng “Từ khi có loài người đến nay chưa có ai vĩ đại bằng Khổng Tử” [tr.20, 29]. Hoàn cảnh địa lý của thời Khổng Tử không khác gì hoàn cảnh địa lý thời Mạnh Tử, nhưng trong khoảng thời gian một trăm năm xa cách thì trào lưu tư tưởng của xã hội Trung Quốc đã chuyển biến đi nhiều. Ở thời Khổng Tử, về học phái gọi là có ảnh hưởng, thì ngoài học phái của Khổng Tử ra chỉ có năm ba nhà ẩn dật, mà Khổng Tử đã từng gặp trong cuộc hành trình như có nói trong sách Luận ngữ: Trường Thư, Kiệt Nịch, Sở Cuồng, Tiếp Dư. Nhưng đến thời Mạnh Tử thì đã có nhiều tư trào tiến triển như sách Trang Tử ở thiên Thiên Hạ, dưới danh nghĩa Bách gia chi học – Cái học của trăm nhà. Mạnh Tử đã nhận định về tinh thần của thời đại rằng: “Vua thánh không ra đời nữa, chư hầu hoành hành, kẻ trí thức nói ngang. Lời nói của Dương Chu, Mặc Địch tràn lan khắp thiên hạ. Người trong thiên hạ không noi theo họ Dương, thì cũng không noi theo họ Mặc” [Thánh vương bất tác, Chư hầu phóng tứ, sử sĩ hoành nghị. Dương Chu, Mặc Địch chi ngôn doanh thiên hạ. Thiên hạ chi ngôn bất quy Dương, tắc quy Mặc. Mạnh Tử - Thiên Đằng Văn Công hạ [tr.37, 34]. Nếu như Khổng Tử đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong giai cấp quý tộc nhà Chu, nhằm lập lại pháp chế, kỷ cương của nhà Chu với một nội dung mới cho phù hợp. Thì thời Mạnh Tử, giai cấp địa chủ mới lên ngày càng lớn mạnh, giai cấp quý tộc thị tộc cũ ngày càng suy yếu, chế độ “tĩnh điền” không còn được coi trọng, chế độ cống nạp không còn được thực hiện đều và đầy đủ nữa. Giai đoạn Mạnh Tử, xã hội Trung Quốc với sự vươn lên của giai cấp địa chủ mới, giai cấp này đã chủ trương dùng vũ lực để thôn tính lẫn nhau, nhằm giải quyết cục diện chiến quốc. Nếu thời Tây Chu, số 18 nước Chư hầu lớn bé của nhà Chu có đến mấy trăm. Thời Xuân Thu, Sở là sự thống nhất của 45 nước, Tề là sự thống nhất của 35 nước, Tần là sự thống nhất của 20 nước, Lỗ là sự thống nhất của 12 nước. Cuối Đông Chu, Trung Quốc chỉ còn 8 nước là: Tống, Sở, Tề, Tần, Việt, Lỗ, Trịnh, Vệ, thì thời Chiến Quốc chỉ còn bảy nước: Tần, Tề, Yên, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy, người ta còn gọi là thời kỳ thất hùng. Cục diện thôn tính lẫn nhau vẫn tiếp tục xảy ra và cục diện thống nhất Trung Quốc nhất định sẽ xảy ra [Tần Thủy Hoàng đã thực hiện điều đó vào năm 221 Tr CN]. Trong tình hình: “Vua thánh không ra đời nữa, chư hầu hoành hành, kẻ trí thức nói ngang. Lời nói của Dương Chu, Mặc Địch tràn lan khắp thiên hạ. Người trong thiên hạ không noi theo họ Dương, thì cũng noi theo họ Mặc” [Tr.37, 34], với sự ra đời của nhiều luồng tư tưởng, nhiều học thuyết khác nhau của cái học của trăm nhà [bách gia chi học]. Có người nhận xét Mạnh Tử đã đứng trên lập trường của một bộ phận lạc hậu trong giai cấp quý tộc thị tộc chủ nô đang trên đường chuyển hóa lên giai cấp địa chủ phong kiến để bảo vệ Nho giáo. Tư tưởng của ông, nhìn chung là bảo thủ, không phù hợp với diễn biến của lịch sử. Bình luận về bối cảnh và thời đại của Mạnh Tử, Triệu Kỷ đời Hậu Hán có viết rằng: “Mạnh Tử thương tiếc cái nghiệp của Nghiêu, Thuấn, Thang, Văn, Chu Công, Khổng Tử, sắp bị mờ lấp; con đường chính trị bị bế tắc, Nhân nghĩa bỏ không trau dồi, kẻ nịnh, kẻ ngụy rong ruổi, màu hồng, màu tía làm loạn cả màu đỏ. Như thế, nên Mạnh Tử hâm mộ Trọng Ni lo thời thế mà đi khắp các nơi, mang đạo Nho đi đến các nước chư hầu, nghĩ giúp đỡ nhân dân” [tr.40, 34]. Lưu Hướng hiệu đính sách Chiến Quốc viết rằng: “Bởi vì ở thời Chiến Quốc, kẻ nào tranh quyền mà thắng thì được ở trên, không nghĩ luyện binh, mưu trá đua nhau nổi lên. Ở thời ấy tuy có đạo đức mà không được thi hành, cho nên Mạnh Tử - Tôn Khanh là kẻ sĩ của Nho thuật bị đời bỏ đi, mà kẻ du thuyết quyền mưu thì được quý trọng”[tr.40, 34]. Như vậy Mạnh Tử không phải chỉ có lập trường bảo thủ lạc hậu của giai cấp quý tộc chủ nô mà đã hàm chứa nhiều yếu tố tích cực. Trong cái bảo thủ, không hợp thời và duy tâm của tư tưởng Mạnh Tử vẫn tồn tại những nét sáng nổi bật rất có ý nghĩa nhân đạo. Đó là tư tưởng về “Nhân”, “Nhân nghĩa”, “Nhân chính” của ông. Ông là một nhà Nho xuất sắc mà theo Sử ký Tư Mã Thiên đã chép, thì Mạnh Tử là một trong ba đại nho 19 thời Xuân Thu - Chiến Quốc. Trong các vị tiền bối của Nho giáo, ông là “Á Thánh”, vị thánh đứng thứ hai sau Khổng Tử. Để bảo vệ và phát huy tư tưởng của Khổng Tử, mong muốn dùng triết thuyết của mình cứu đời, Mạnh Tử đã chu du khắp các nước Chư hầu để truyền bá tư tưởng và chủ trương của mình. Ông chu du qua Tề, Ngụy, Lương,.. cố đem điều lợi hại khuyên răn các vua hiếu chiến đương thời. Song trong tình thế các nước đang bằng mọi cách để thôn tính lẫn nhau, thì những điều Mạnh Tử khuyên dạy, họ đều do dự hoặc cho là viển vông không chấp nhận được. Vì thế, đi đến đâu ông cũng không thỏa mãn được mong muốn của mình, nhưng ông không hề nản chí. Ông lui về dạy học và cùng với các học trò của mình như Vạn Chương, Nhạc Khắc Chính, Công Tôn Sửu, xếp đặt thứ tự trong Kinh Thi, thuật lại ý của Trọng Ni, ghi chép những lời của ông đã bàn luận đối đáp với các vua Chư hầu và những lời phê bình của ông đối với các học thuyết khác, làm ra bảy thiên sách, có tên là Mạnh Tử. Sau này đến đời Tống, Chu Hy đã xếp cuốn Mạnh Tử là một trong những sách kinh điển của Nho gia, gọi là Tứ Thư. Sách này là kinh điển của Khổng học trong Tứ Thư, Ngũ Kinh. Nếu như Khổng Tử khi bàn về phạm trù “Nhân” với cả hai tư cách là tác dụng của nó và bản thể, nhưng không quyết đoán nó từ đâu ra: “Tính người ta vốn gần với nhau, vì tập nhiễm mà thành ra xa nhau vậy” [Tính tương cận dã, tập tương viễn dã] [tr.43, 34], thì Mạnh Tử lại bàn về “Nhân” với tư cách là “tính”, là “tâm” và ông quả quyết bản tính con người là thiện. Ông cho rằng tính của con người ta là thiện và ai cũng có và ai cũng giống nhau. Con người luôn hành động đúng với bản tính thiện của mình, những việc làm bất thiện là do tự gò ép, bắt buộc. Ông ví: “Cái bản tính của con người ta vốn là thiện cũng giống như bản tính tự nhiên của nước là chảy từ cao xuống thấp vậy. Không một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện cũng như không có một thứ nước nào lại không có chảy xuống thấp” [tr.221, 3]. Trong khi tranh luận với Cáo Tử, Mạnh Tử nói rằng: “Miệng đối với vị ngon đều thích như nhau, tai đối với tiếng hay đều nghe như nhau, mắt đối với sắc đẹp thì đều thấy như nhau. Thế mà cái tâm của người ta lại không giống nhau là cớ sao” [tr.223, 22]. Tức là ông khẳng định bản tính con người là thiện, ai cũng có và giống như nhau. Tính thiện vừa là bản thể của con người, vừa là tác dụng trong mối quan hệ giữa người với người và mối quan hệ giữa người với vạn vật. Cái giống nhau của mọi người đó là nhân tâm. Từ 20 bản thể nhân tâm ấy mà có tác dụng nhân đạo là từ ái. Ông nói: “Nhân loại ai cũng có lòng bất nhẫn cả” [Nhân giai hữu bất nhẫn tâm chi tâm – Công tôn sửu – thượng]. Lòng bất nhẫn ấy là lòng nhân từ đương nhiên có của con người, là tính thiện bẩm sinh của con người chứ không phải sự áp đặt của bất cứ một thế lực nào khác. Từ quan điểm nhân sinh ấy, phạm trù “Nhân” ở Mạnh Tử tuy là sự duy tâm hóa phạm trù “Nhân” của Khổng Tử, nhưng cũng có rất nhiều điểm tiến bộ. Duy tâm hóa là vì ông cho tính thiện của con người là bẩm sinh, là trời phú. Nguồn gốc của tính người là thiện nó cũng giống như nước chảy từ cao xuống thấp vậy, nếu có biểu hiện không thiện thì đó là do con người không biết gìn giữ bản tâm của mình, do bị vật dục xui khiến và hoàn cảnh tác động, do người ta không biết gìn giữ, nuôi dưỡng cái phần cao đại, tôn quý trong tâm mình để cho cái thấp hèn, nhỏ nhen trong con người lấn át, che lấp. Cái tiến bộ là phạm trù “Nhân” của ông với các nội dung sau đây: Thứ nhất: “Nhân” là bản năng cố hữu của tâm. Nhân là thương người, và ai ai cũng có: “Nhân giai hữu bất nhẫn nhân chi tâm” [tr.226, 22]. Ai cũng có lòng thương xót đối với người khác, và lòng thương xót ấy là đầu mối của “Nhân” [Trắc ẩn chi tâm, nhân chi đoan dã] [tr.47, 34]. Cái lòng thương xót trắc ẩn ấy là lòng thương yêu, do cái lòng nhân phát xuất ra. Và Mạnh Tử cho rằng cái điểm trắc ẩn ấy thì ai làm người cũng có một cách tự nhiên. Đấy là điểm cộng thông giữa người với người, và là điểm phân biệt người với cầm thú. Cái lòng trắc ẩn ấy còn gọi là cái lòng bất nhẫn không nở của mọi người. Vì có cái lòng bất nhẫn ấy nên mới biết thương xót, như thương xót đứa trẻ thơ sắp rơi xuống giếng chợt nhìn thấy cảnh tượng ấy thì không kịp nghĩ đến điều gì khác mà là nổi lên lòng thương xót, trắc ẩn, đấy là khởi điểm của lòng yêu do lòng “Nhân” phát xuất ra vậy. Như vậy, “Nhân” chung chung của Khổng Tử giờ đây ở Mạnh Tử đã có một cơ sở lý luận với tư cách là bản tính của chính con người. Chính lẽ đó, ông tự ví mình như thánh hiền, như trượng phu. Điều đó có gì mà không được, bởi lẽ mọi người đều vốn sẵn tính thiện tiên thiên, nhân từ. Thứ hai: “Nhân” là làm điều lành, làm điều thiện, như thế “Nhân” gần với mọi người, không xa con người “muôn vật đều có đủ trong người ta, ta tự xét mình thành thực thì có vui thú nào lớn hơn nữa. Ta cố sức làm điều lành như ta muốn người làm cho ta, thì cái “Nhân” có gì gần hơn nữa. [vạn vật giai

Video liên quan

Chủ Đề