Biểu tượng trong triết học La gì
Trang chủ >> Bình luận >> Về tính hình tượng và tính biểu tượng trong tác phẩm văn hóa - nghệ thuật Show Về tính hình tượng và tính biểu tượng trong tác phẩm văn hóa - nghệ thuật- Tác phẩm nghệ thuật là đơn vị tồn tại của nghệ thuật, trong đó hình tượng nghệ thuật được coi như là "Tế bào của tác phẩm. Không có hình tượng nghệ thuật thì không có cơ sở để tạo nên nội dung và hình thức của tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên nghệ thuật chân chính không đòi hỏi các hình tượng nghệ thuật mô tả giống như thật vẻ bề ngoài của đối tượng, mà cần phải phản ánh đúng cái bản chất bên trong của nó. Trên thực tế không thể có hình tượng "chết đứng" như Từ Hải trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Song hình tượng nghệ thuật này được mọi người công nhận. Bởi lẽ nó nói lên được những khát vọng chân chính của con người, thể hiện được sức mạnh chân lý của cuộc sống. Đó là những hình tượng nghệ thuật đã đạt đến tính biểu tượng ( symbolic ) Theo quan niệm của H. Peretz (GS. Xã hội học, Pháp) khi nghiên cứu về các sản phẩm văn hoá tinh thần, ông cũng cho rằng: Nói chung, những sản phẩm tinh thần này hiện ra dưới hình thức ngôn ngữ viết (văn chương, triết học); tín hiệu đồ hoạ (nghệ thuật tạo hình, kiến trúc) hoặc hình ảnh (nhiếp ảnh, điện ảnh); âm thanh (âm nhạc) v.v... Chúng là những sản phẩm tinh thần mang "tính biểu tượng", chừng mực, chúng tự phân biệt với các đồ vật khác bởi những giá trị (chuẩn mực, đạo đứuc, chính trị hoặc thẩm mỹ) mà chúng chuyên chở, những giá trị mà con người đã gán cho chúng ( 3 )Điểm quan trọng tạo thành đặc trưng chung nhất của tác phẩm văn hoá là nó sử dụng các hệ thống ký hiệu hàm nghĩa - biểu tượng, để nhằm đối thoại với thế giới tâm hồn của con người. Chúng trang bị cho con người những cảm xúc "đa nghĩa" nhất, những cốt lõi quy định diện mạo cụ thể của một văn hoá.E. Cassirer, nhà triết học nổi tiếng người Đức, trong Triết học các hình thái biểu tượng đề nghị thay định nghĩa con người như một "động vật lý trí" bằng định nghĩa con người như một "động vật sản xuất ra các hình thái biểu tượng". Ông cho rằng:"Tư duy và hành vi "biểu tượng hoá" là đặc trưng tiêu biểu nhất của đời sống nhân loại và toàn bộ văn hoá nhân loại phát triển đều dựa vào những điều kiện này.... chúng ta nên định nghĩa con người là động vật biểu trưng (Animal Symbolicum)... chỉ có như thế, chúng ta mới có thể vạch ra chỗ độc đáo của con người, cũng mới có thể lý giải được con đường mới khai phóng cho con người - con đường hướng về văn hoá" (4)Quá trình "biểu tượng hoá"(symbolization) chính là quá trình nội nhập (introjection) văn hoá vào đời sống linh trưởng, điều đó nói lên tính chất cách mạng của quá trình tiến hoá của bộ não người. Sự "biểu tượng hoá" đã tạo nên một chiều kích (dimention) mới vào cuộc sống của người vượn, một khi mọi sự vật qua lăng kính nhận thức, đều có sự biến hoá và có sự tiếp nhận những "ý nghĩa" mới thông qua các hệ thống biểu tượng.Dựa vào năng lực tượng trưng hoá" của con người và xem biểu tượng như là một hình thái biểu hiện ngôn ngữ đặc trưng của văn hoá. Toàn thư quốc tế về phát triển văn hoá (International thesaurus on cultural development) của UNESCO đã đưa ra định nghĩa văn hoá như sau :"Văn hoá là tập hợp các hệ thống biểu tượng, nó quy định thế ứng xử của con người và làm cho một số đông người có thể giao tiếp với nhau, liên kết họ thành một cộng đồng riêng biệt" ( 5 )Trước đó C.Levy - Strauss cũng đưa ra một khái niệm tương tự như vậy. Ông viết :"Mọi nền văn hoá đều có thể xem như một tập hợp các hệ thống biểu tượng, trong đó xếp hàng đầu là ngữ ngôn, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật, khoa học, tôn giáo ( 6 ) Như vậy, sự tồn tại của văn hoá luôn được đặc định vào năng lực "tượng trưng hoá" của con người trong quá trình nhận thức và sáng tạo ra các biểu tượng. Bởi lẽ biểu tượng luôn hàm chứa trong nó những giá trị mà đằng sau mỗi giá trị thường ẩn dấu một nhu cầu nào đó của con người. Trong mọi nhu cầu của đời sống xã hội thì nhu cầu văn hoá là nhu cầu cao nhất - nhu cầu sản xuất và tiêu dùng các tác phẩm văn hoá (bao hàm cả tác phẩm nghệ thuật). Sự đa dạng của các loại hình văn hoá, biểu hiện tính phong phú và tính nhiều vẻ của thế giới biểu tượng.Tự điển Larousse cho rằng: "Biểu tượng là một dấu hiệu hình ảnh, bằng con vật sống động hay bằng đồ vật, nó biểu hiện một điều trừu tượng, nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều gì đó".Trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy, nhà triết học đời Tống cũng giải thích "Tượng là lấy hình này để tỏ nghĩa kia" tức là dùng cái "có thể hiểu biết" để nói lên cái điều "khó có thể hiểu biết", hay dùng cái cụ thể để nói cái trừu tượng, dùng cái tĩnh để nói cái động, dùng cái hữu hình để nói cái vô hình v.v....Như trong đồ hình bát quái (8 quẻ) trong kinh Dịch là sự phô bày bằng hình ảnh cụ thể về một hiện trạng cuả thời gian. Đó là sự chuyển dịch của thời gian trong không gian. Mỗi quái là một tượng lớn, được cấu thành ở hai tượng nhỏ cơ bản. Một vạch liền (-) là tượng của nguyên lý Dương v.v..; một vạch đứt (- -) là tượng của nguyên lý Âm. Về mặt hàm nghĩa của ngôn ngữ tượng trưng còn cho phép đọc là: Vạch liền tượng của giống đực, ánh sáng, mặt trời, đàn ông, sự sống, hạnh phúc v.v... Vạch đứt là tượng của giống cái, bóng tối, mặt trăng, đàn bà, sự chết, đau khổ v.v... Biểu tượng luôn mở rộng sự liên tưởng để trí tuệ có thể truy tìm, khám phá ra những ý nghĩa còn chìm khuất trong chiều sâu nhận thức của con ngườiQua sự phân tích trên đây ta thấy sự ra đời của biểu tượng gắn liền với sự thực hiện năng khiếu tinh thần đặc biệt chỉ có ở loài người - năng lực "biểu tượng hoá" và, biểu tượng được hiểu là một sự vật hiện tượng nào đó, nhờ thể hiện trong nó một nội dung cụ thể, cảm tính, mà hiện tượng này biểu hiện, trình ra những ý nghĩa, mang giá trị trừu tượng. Có thể nói biểu tượng chính là một dạng thức ký hiệu - ngôn ngữ văn hoá.Ngành nghiên cứu mối quan hệ giữa vật làm biểu tượng với giá trị mà biểu tượng bao hàm cũng như đời sống của các ký hiệu được F. De Saussure gọi là "ký hiệu học" (Sémiology).Charler Sanders Peirce; triết gia người Hoa Kỳ đã nhận định rằng : "Chỉ có thể nghiên cứu hoạt động tinh thần của con người bằng những "khách thể đối ứng" ở bên ngoài. Những khách thể đối ứng này mang tính chất thay thế, đại diện cho hoạt động tư duy cho nên mang tính chất ký hiệu ( 7 )Vận dụng tiếp cận ký hiệu học trong nghiên cứu văn hoá, Iu. M. Lốtman, B.A. Uxpenxki, những nhà nhân học xem văn hoá như một cơ chế ký hiệu học hoàn chỉnh, và nhìn xuyên suốt trong "văn hoá tinh thần" có một thừa số chung là tư duy bằng ngôn ngữ - ký hiệu, mặc dù nó được biểu hiện bằng nhiều sắc thái, ở nhiều lĩnh vực khác nhau.Theo nhận định của Iu. M. Lốtman và B.A Uxpenxki thì: "Một trong những biểu hiện chủ yếu của văn hoá là mối liên hệ của nó với "ký hiệu" và "tính ký hiệu" chính bản thân văn hoá đã thiết lập nên một kiểu ký hiệu vốn có ở mình và ở mức độ nhất định đã chế định sự thống nhất bên trong của nó ( 8 )Một trong những đóng góp quan trọng cho lý thuyết ngôn ngữ học và ký hiệu học, đồng thời còn làm chỗ dựa cho phương pháp ký hiệu học của R. Barthes chính là công trình của Louis Trolle Hjelmslev.Tiếp thu quan niệm của F. De. Saussure về ký hiệu - (ngôn ngữ), ông cũng khẳng định rằng , mỗi ký hiệu là hiện tượng được nẩy sinh bằng mối quan hệ giữa "sự biểu đạt"còn gọi là cái biểu đạt (CBĐ) như các sự kiện, hiện tượng, các cái dùng để biểu thị (một đồ vật, hay một hình ảnh v.v....) và "nội dung được biểu đạt" còn gọi là cái được biểu đạt (CĐBĐ). Đó là những giá trị, chuẩn mực, ý nghĩa v.v... Nói khái quát, mỗi ký hiệu là bao gồm ba yếu tố :Điều đóng góp quan trọng nhất của L. Hjelmslev là có sự phân biệt giữa"Ký hiệu học biểu thị" với "Ký hiệu học hàm nghĩa"Hệ thống ký hiệu thông thường là hệ thống ký hiệu biểu thị. Còn hệ thống ký hiệu hàm nghĩa là một hệ thống ký hiệu mà bình diện biểu đạt (hình thức) của nó cũng là một hệ thống ký hiệu biểu thị.R. Barthess đã tiếp thu khái niệm Ký hiệu học biểu thị và Ký hiệu học hàm nghĩa của Hjelmslev vào hệ thống Ký hiệu học của mình. Có thể tóm tắt sơ đồ "siêu ký hiệu" của R. Barthes như sau :Một là, hệ thống "Ký hiệu học biểu thị" [A] ( ký hiệu - thông thường )Hai là hệ thống "Ký hiệu học hàm nghĩa" [B] (Biểu tượng Siêu ký hiệu ).Hai hệ thống ký hiệu này lồng ghép với nhau tạo thành "hệ thống trong hệ thống" - hệ thống biểu tượng. Chúng được biểu hiện theo sơ đồ sau đây:Sơ đồ trên đây đã thể hiện rõ là: trong hệ thống (B) ở bình diện "cái biểu đạt" (CBĐ) - hình thức của hệ thống (B) đã là hệ thống ký hiệu học biểu thị (A). Còn ở bình diện "cái được biểu đạt" (CĐBĐ) - nội dung của hệ thống (B) lại là một hệ thống ký hiệu nghĩa hàm nghĩa (ẩn dụ).Cả hai hệ thống (A) và (B) trở thành hệ thống"kép" tạo thành thế giới "siêu ký hiệu" - Thế giới biểu tượng (Symbols).Để dễ dàng hiểu được sơ đồ cú pháp "Ký hiệu học hàm nghĩa" của R. Barthes trong quá trình tiếp cận Ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng, ta có thể chuyển đổi sơ đồ mẫu trên đây trở thành sơ đồ giải thích như sau:(A) Hệ thống Ký hiệu học biểu thị (ký hiệu biểu thị) bao gồm hai mặt: Hình ảnh, hình tượng biểu thị và ý nghĩa biểu đạt chúng tạo thànhh một ký hiệu thông thường (đơn nghĩa).(B) Ký hiệu học hàm nghĩa (ký hiệu hàm nghĩa) bao hàm hai mặt: Ký hiệu biểu thị - hiển ngôn, và ký hiệu ẩn dụ - mật ngôn. Chúng tạo nên thế giới của "siêu ký hiệu " - thế giới biểu tượng (đa nghĩa).Như vậy, biểu tượng luôn có hai mặt:"Cái tượng trưng" và "cái được tượng trưng". Hai mặt này được kết hợp theo tư duy liên tưởng và theo một quan hệ mang tính ước lệ. Sanders peirce cho rằng:"Một biểu tượng là một ký hiệu tuỳ thuộc vào đối tượng mà nó biểu hiện do một luật lệ, thường là một sự liên tưởng chung làm cho biểu tượng được xem như tuỳ thuộc vào đối tượng ấy"- Bằng hướng tiếp cận Ký hiệu học nghiên cứu biểu tượng cùng với sự phân tích hệ thống "ký hiệu của R. Barthes trên đây, ta nhận thấy biểu tượng bao giờ cũng là hệ thống "siêu ký hiệu. Đó là những ký hiệu với hai mặt biểu hiện: "cái biểu đạt" (CBĐ) là hình thức hàm nghĩa và "cái được biểu đạt" (CĐBĐ) là nội dung hàm nghĩa. Song, ở bình diện "cái biểu đạt" lại là một "ký hiệu biểu thị". Như vậy, toàn bộ tổ hợp này: hệ thống (A) và hệ thống (B) kết hợp lại thành hệ thống kép, tức là "hệ thống trong hệ thống". Từ đó hình thành nên một "siêu hệ thống" - hệ thống biểu tượng. Trong lòng hệ thống biểu tượng gồm có: phần "hiển ngôn"và"mật ngôn" đã tạo nên hệ thống "ý nghĩa của ý nghĩa". Thế giới biểu tượng là thế giới của ý nghĩa.Ta có thể hình dung bằng lược đồ đơn giản sau đây : - (a): Thế giới hình tượng; (a): Ký hiệu - biểu thị. - (b): Thế giới ý niệm; (b): Ký hiệu - ẩn dụ.Dưới góc độ nghệ thuật thì biểu tượng được xem là một dạng chuyển nghĩa trong ngôn từ nghệ thuật và là một phạm trù thẩm mỹ. Nó được xác lập bởi hai yếu tố cơ bản: Một bên là "hình tượng nghệ thuật"( ký hiệu biểu thị ), một bên thuộc về "nghĩa bóng" (ký hiệu ẩn dụ). - Biểu tượng bao giờ cũng có:+ Tính chất biểu hiện một cái gì bằng sự vật có hình ảnh.+ Đại diện cho một cái gì đó, nhằm gợi lên một cái gì theo liên tưởng.+ Tính ước lệ.+ Mã (ký hiệu)+ Biểu hiện những giá trị mang tính nhân văn.Về mặt chức năng, biểu tượng còn mang tính thay thế (vật môi giới). Biểu tượng không những thay thế cho các đối tượng hiện thực, mà còn thay thế tất cả các quá trình, cả hình tượng, ý niệm của con người. Chức năng thay thế là một trong những đặc điểm của biểu tượng. Bên cạnh đó, nó còn có những thuộc tính và chức năng khác như: chức năng giáo dục, liên kết, dự báo, giao tiếp, thông tin v.v...Quá trình thay thế trong lĩnh vực nghệ thuật thường diễn ra một cách ước lệ và ẩn dụ, để nói lên một giá trị, một tư tưởng nào đó của con người Cũng như hình tượng nghệ thuật biểu tượng cũng mang tính khái quát cao về các hiện tượng của đời sống. Điều đó đã dẫn đến sự gần gũi với hình tượng nghệ thuật. Xét bên ngoài hình tượng và biểu tượng ít có sự khác biệt. Nhưng chúng có một ranh giới hết sức quan trọng. Một bên là sự "điển hình hoá" còn một bên là "tượng trưng hoá".Ngoài ra, một nét khác biệt quan trọng không kém giữa biểu tượng văn hóa (ký hiệu hàm nghĩa) với hình tượng nghệ thuật (ký hiệu biểu thị) thì biểu tượng văn hóa bao giờ cũng có tính chất ước lệ mang tính biến động, trong khi hình tượng nghệ thuật mang tính đại diện với tính ổn định của nó.Khi xác định sự khác biệt về mối liên hệ giữa hình tượng nghệ thuật và biểu tượng văn hóa trong tác phẩm, cần nhấn mạnh bản chất hai mặt của biểu tượng. Một mặt nó vẫn giữ mối liên hệ với việc thể hiện tính hiện thực (tính hình tượng); mặt khác là nó mang tính tượng trưng (tính biểu tượng) biểu đạt về một giá trị, mang tính trừu tượng, phi hiện thực, khó cảm nhận được. Hai quá trình này luôn mâu thuẫn và thống nhất với nhau. Tính hai mặt của biểu tượng đã nói lên vai trò của tượng trưng trong nghệ thuật. Biểu tượng có thể đưa người đọc, người xem vào lĩnh vực "phi lý" đồng thời lại là phương tiện để khái quát về một giá trị, một ý nghĩa nào đó của hiện thực. Điều đó nói lên biểu tượng khi thì tách xa, khi thì xích lại gần với hình tượng nghệ thuật, nhiều khi nó lại có những nét và những thuộc tính của hình tượng nghệ thuật. Và, nếu lập đi lập lại nhiều lần, hình tượng nghệ thuật sẽ trở thành biểu tượng.Biểu tượng không chỉ biểu thị một sự việc, nó đã hoàn thành, mà còn biểu thị cái đang phát triển. Nó không chỉ biểu thị mặt bảo thủ, mà còn biểu thị mặt năng động của cuộc sống.Ví dụ: "ngọn đuốc" tượng trưng cho sự khai sáng, tiến bộ; "cờ đỏ" tượng trưng cho cách mạng. Trong các tác phẩm nghệ thuật có giá trị và nổi tiếng, chúng ta thường hay gặp những biểu tượng biểu thị cho sự tiến bộ, phản kháng sự lạc hậu hoặc mang ý nghĩa khẳng định công lý và chủ nghĩa nhân đạo. Trong nó tập trung những tình cảm và ước vọng cao cả. Bài: TS. Nguyễn Văn Hậu Bài viết khác :Tag: Biểu Tượng Môn Văn |