Bài văn về nhã nhạc cung đình huế năm 2024

Nhã nhạc cung đình xuất hiện vào những năm đầu của triều Lý [1010-1225]. Tuy nhiên, phải đến thời Nguyễn [1802-1945], loại hình âm nhạc này mới thực sự phát triển rực rỡ. Âm nhạc của Nhã nhạc cung đình tao nhã, thiêng liêng thường dùng trình diễn trong các dịp đại lễ trang nghiêm của triều đình, cúng tế thần linh và không thể thiếu dưới triều đại bấy giờ. Từ đây, Nhã nhạc gắn liền với cung đình Huế và phát triển theo mô thức quy phạm đúng chuẩn, bài bản với hàng trăm nhạc chương. Sau khi nhà Nguyễn cáo chung vào năm 1945, Nhã nhạc cung đình Huế đứng trước nguy cơ mai một, thất truyền.

Từ năm 1992, công tác bảo tồn Nhã nhạc cung đình được triển khai và dần được thế giới biết đến. Năm 1994, UNESCO tổ chức Hội nghị quốc tế các chuyên gia về di sản văn hóa phi vật thể tại Thừa Thiên - Huế. Tại đây, một chương trình quốc gia khôi phục và nghiên cứu Nhã nhạc cung đình Huế được đệ trình UNESCO. Trên cơ sở đó, Bộ Văn hóa và Thông tin cùng tỉnh Thừa Thiên - Huế đã giao Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lập hồ sơ ứng cử cấp quốc gia Nhã nhạc Huế - Nhạc Cung đình Việt Nam đệ trình UNESCO công nhận là Kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của thế giới.

Giáo sư Trần Văn Khê là người đã có nhiều đóng góp trong việc đưa Nhã nhạc cung đình Huế [âm nhạc cung đình Việt Nam] đệ trình UNESCO công nhận là Kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Không chỉ góp phần hoàn thiện bộ hồ sơ đệ trình, sinh thời, giáo sư còn ghi dấu khi trực tiếp giới thiệu, chơi nhạc cụ truyền thống trước các bạn bè quốc tế.

Các nhạc công biểu diễn Nhã nhạc.

Ngày 7-11-2003, Nhã nhạc - âm nhạc cung đình Việt Nam được UNESCO vinh danh là Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại [từ năm 2008 gọi là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại] và là di sản phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được thế giới công nhận. Từ đây, Việt Nam có chương trình hành động quốc gia nhằm bảo tồn, phục hồi và phát huy giá trị loại hình âm nhạc này.

Qua hàng trăm năm, Nhã nhạc cung đình được lưu truyền, bảo tồn dưới nhiều hình thức như dàn nhạc, ca chương, bài bản, vũ khúc...”. Ngày nay, Nhã nhạc có điều kiện và diễn tấu khá phong phú. Những giá trị nghệ thuật độc đáo của di sản phi vật thể này được các lớp nghệ nhân, nghệ sĩ không ngừng nỗ lực, giữ gìn, lưu truyền và phát huy”, Nghệ nhân Ưu tú Hoàng Trọng Cương, Phó Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế cho hay.

Theo Nghệ sĩ Nhân dân Phan Bạch Hạc, Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế, đơn vị đang lưu trữ nhiều hồ sơ, sưu tầm, khôi phục các điệu múa cổ, bài nhã nhạc và trích đoạn tuồng cổ; trong đó có nhiều tiết mục được dàn dựng công phu. Là thế hệ tiếp nối, các nghệ sĩ của nhà hát luôn nỗ lực học tập, tích lũy kỹ năng cho bản thân để tiếp tục truyền ngón cho lớp đàn em kế cận. Đơn vị cũng được cấp kinh phí đào tạo và tạo điều kiện hết mình cho các học viên theo học Nhã nhạc cung đình được hoạt động, sinh hoạt sau đào tạo.

Đặc biệt, ngoài ba đơn vị nghệ thuật biểu diễn, Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế có phòng nghiên cứu biểu diễn riêng, bao gồm bộ phận nghiên cứu và bộ phận ứng dụng để phác thảo các điệu múa, bài bản ký âm từ chữ nhạc thành nốt nhạc để các nghệ sĩ trẻ học tập. Dựa trên các nghiên cứu, các nghệ nhân, nghệ sĩ đưa ra phục vụ, biểu diễn tại các địa điểm diễn xướng.

Tiết mục múa cung đình trong tiếng nhã nhạc.

Từ năm 2004, Nhà hát Duyệt Thị Đường [gần 200 năm tuổi] được Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế khôi phục trong khuôn viên Đại nội Huế. Từ đây, lớp nghệ nhân, nghệ sĩ, nhạc công Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế có sân diễn ổn định để đưa Nhã nhạc vào hoạt động phục vụ khách du lịch. Di sản này đến nay vẫn là sự lựa chọn thưởng thức hàng đầu của du khách mỗi khi đến Huế.

Vào các ngày trong tuần, Nhà hát Duyệt Thị Đường mở cửa đón khách tham quan đến trải nghiệm, chiêm ngưỡng các điệu múa cổ, trích đoạn tuồng cổ dưới không gian trầm mặc, cổ kính của di tích Cố đô. Chị Hoàng Thu Trang, du khách Hà Nội chia sẻ sự hài lòng, thích thú khi được thưởng thức Nhã nhạc trong không gian Nhà hát Duyệt Thị Đường. Qua các làn điệu mang âm hưởng khi rộn ràng, uyển chuyển, lúc da diết, trang trọng, chị được thả hồn vào quá khứ lịch sử, cảm nhận sâu sắc về âm sắc Nhã nhạc và hiểu hơn về cuộc sống con người dưới triều đại nhà Nguyễn.

“Thừa Thiên - Huế đang trở thành một thành phố lễ hội 4 mùa. Do đó, để phục vụ nhu cầu biểu diễn trong các lễ hội địa phương, Nhà hát Nghệ thuật truyền thống Cung đình Huế dàn dựng các tiết mục vừa đảm bảo sự đầu tư quy mô vừa dựa trên nền tảng âm nhạc truyền thống, âm sắc cung đình, không bị lai tạp, hòa tan trong các thể loại âm nhạc hiện đại”, Nghệ sĩ Nhân dân Bạch Hạc chia sẻ.

Theo Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh Thừa Thiên - Huế Phan Thanh Hải, tỉnh không chỉ đầu tư môi trường diễn xướng nhiều hơn cho Nhã nhạc mà còn chú trọng đào tạo đội ngũ kế thừa và nâng cao trình độ các nghệ nhân, nghệ sĩ; cần có những cơ chế, chính sách bồi dưỡng các tài năng; tăng cường giao lưu hợp tác để Nhã nhạc được quốc tế biết đến nhiều hơn.

Ai là người tạo ra Nhã nhạc cung đình Huế?

Từ những năm 30 của thế kỉ XVII, nhà văn hóa lớn Đào Duy Từ[1572 - 1634] tương truyền là tác giả của một số bài hát, điệu múa và vở hát bội cung đình thời các chúa Nguyễn, ông tổ lớn nhất của âm nhạc Huế và hát bội Huế được thờ tại nhà thờ Thanh Bình ở Huế đã tiếp thu nhạc [Đàng Ngoài] và đã giúp chúa Nguyễn Phúc ...

Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hóa gì?

Nhã nhạc cung đình Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu nhân loại vào 7/11/2003 và lễ đón bằng công nhận được tổ chức tại thủ đô Paris nước Pháp vào ngày 31/1/2004.

Nhã nhạc cung đình Huế có ý nghĩa như thế nào?

Nhã nhạc là loại hình nghệ thuật có nguồn gốc từ thế kỷ 13 và được phát triển rực rỡ dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802 – 1945. Lúc này, nhã nhạc được trình diễn phục vụ cung đình trong các buổi lễ nghi quan trọng và được xem như biểu tượng của quyền lực, trường thọ của từng triều đại.

Nhã nhạc cung đình Huế được lưu truyền như thế nào?

Nhã nhạc Huế được lưu truyền trong đời sống nhân dân một cách rộng rãi với nhiều hình thức diễn xướng trong các lễ hội, các nghi thức truyền thống, biểu diễn tại các chương trình âm nhạc. Trang nghiêm mà gần gũi, dân dã nên nhã nhạc Việt Nam được ưa thích, lưu truyền từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.

Chủ Đề