Vị trạng nguyên trẻ tuổi nhất nước ta là ai

Nếu bạn là những người thuộc thế hệ 8X hẳn sẽ biết câu chuyện “Đứa bé thông minh” trong sách văn học. Đứa bé đó thực ra là một nhân vật lịch sử có thật, chính là Trạng nguyên Nguyễn Hiền, một “thần đồng đất Việt” từ thế kỷ 13.

Đền thờ Nguyễn Hiền tại xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.[ Ảnh internet]

“Thần đồng” từ thuở còn thơ

Nguyễn Hiền sinh năm 1234 tại làng Dương An, huyện Thượng Hiền [nay là xã Nam Thắng, huyện Nam Trực], tỉnh Nam Định. Vốn từ nhỏ mồ côi cha nên phải cùng mẹ sống trong một túp lều thuộc khuôn viên của chùa làng và được sư thầy dạy dỗ.

Nương nhờ cửa Phật, nhà sư dạy cho cậu bé chữ thánh hiền, mỗi buổi phải đọc xong 10 tờ giấy. Khi đọc sách, chỉ cần liếc qua cậu đã thuộc làu. Ban đêm không có đèn dầu để học, cậu bé bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng làm đèn, dùi mài kinh sử. Chẳng bao lâu, cậu bé đã thuộc hết sách của nhà chùa.

Có câu chuyện tương truyền, mới ngày đầu Nguyễn Hiền viết được 10 trang giấy đã đọc được ngay, làm sư thầy ngạc nhiên. Một đêm, sư thầy năm mơ thấy Phật quở: “Trang nguyên mỗi lần vào chùa thường nghịch ngợm, sao nhà ngươi không răn đe, ngăn chặn?”. Sư thầy nửa đêm tỉnh dậy thắp đuốc soi thấy khắp tượng Phật trong chùa đều có chữ, nhìn là nhận ra ngay nét chữ của Nguyễn Hiền. Lên lớp, sư thầy nhắc nhở cậu một câu trong kinh sách khiến Nguyễn Hiền tự nhận lỗi và đi lau sạch những chữ mà mình đã viết lên tượng. Từ ngày đó, cậu bé càng chăm chỉ học hơn, học đến đâu nhớ đến đó, xuất khẩu thành văn. Vì vậy, tuy chỉ mới 11 tuổi, cậu bé được mọi người xưng tụng là “thần đồng”.

Vua Trần thán phục

Năm ấy có người họ Đặng bấy giờ tự cho mình là văn hay chữ tốt, nghe danh thần đồng 11 tuổi bèn tìm đến thử tài. Họ Đặng ra đầu đề bài phú: “Phượng hoàng sào a, kỳ lân du úc”, và ra hạn cho Hiền số câu, mỗi câu phải có tiếng chỉ một loài cầm thú. Hiền ứng khẩu ngay:

“Phi long kiên chiếu

Mã bất xuất hà

Ý bi Hữu Hùng chi thế

Ấp vu Trác Lộc chi a.”

Dịch là:

“Rồng không bay lên nơi ao, hồ

Ngựa không từ sông phi ra

Đẹp thay đời có họ Hữu Hùng

Làm nhà ở nơi Trác Lộc.”

Người họ Đặng kia tâm phục khẩu phục, tấm tắc khen rằng đúng là “thiên tài” xuất thế.

Năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông, triều đình mở khoa thi đầu tiên nhằm chọn hiền tài phục vụ đất nước. Nguyễn Hiền ứng thi năm đó và đỗ trạng ở cái tuổi 13. Ngoài ông ra, còn có 2 vị sĩ tử đỗ đầu trẻ tuổi nữa là Bảng nhãn Lê Văn Hưu 18 tuổi và Thám hoa Đặng Ma La 14 tuổi. Vì vậy, trạng nguyên Nguyễn Hiền được coi là “Khai quốc Trạng Nguyên” và là trạng nhỏ tuổi nhất trong lịch sử nước ta.

Tài trí hơn người, nhất là khả năng đối đáp trôi chảy của cậu bé thần đồng đỗ trạng nguyên được vua Trần Thái Tông rất thán phục. Khi vào cung diện kiến, nhà vua thắc mắc một câu nên hỏi ông học thầy nào, Nguyễn Hiền bèn đáp ngay: “Tâu bệ hạ, thần sinh nhi tri chi, hữu nghi tắc vấn tăng nhất nhị tự” [Tạm dịch: Thần sinh ra đã biết, có một đôi chữ không hiểu thì hỏi ông sư ở chùa làng].

Nhà vua nghe câu trả lời thì cho rằng Nguyễn Hiền còn nhỏ tuổi, lại kiêu căng, không biết lễ phép nên vua hạ chỉ cho trạng về nhà học lễ 3 năm rồi mới bổ dụng. Vì thế mà trạng Hiền chưa được ban áo mão mà về quê với mẹ, lại ngày ngày đọc sách.

Khiến nhà vua và sứ thần phương Bắc nể phục

Một lần viên sứ Trung Hoa thử người tài xứ Nam bằng cách đưa ra một con ốc xoắn nhờ xâu qua ruột nó bằng một sợi chỉ mảnh thì viên sứ mới chịu vào thành. Vua truyền cho các quan tìm cách xâu thử nhưng ai cũng đều lắc đầu lè lưỡi. Cuối cùng nhớ đến trạng nguyên Nguyễn Hiền, nhà vua bèn triệu trạng về kinh nhưng ông không chịu. Nhưng trước khi viên quan đi mời ông quay ngựa về kinh, ông có xuất mấy câu thơ giúp vua giải đố sứ Tàu:

“Tích tịch tình tang!

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng

Bên thì lấy giấy mà bưng

Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang

Tích tịch tình tang!”

Ông chỉ cần nói mấy câu là có thể phá giải câu đố hóc búa của sứ Tàu.

Viên quan vội phóng ngựa về tâu, nhà vua mừng rỡ khi câu đố đã được giải khai bèn nhất tâm mời bằng được trạng nguyên về kinh, nhưng ông khước từ. Một lần khác, sứ thần phương Bắc lại đưa sang một bài thơ ngụ ngôn để thử nhân tài nước ta gồm 4 câu chữ Hán:

“Lưỡng nhật bình đầu nhật,

Tứ sơn điên đảo sơn,

Lưỡng vương tranh nhất quốc,

Tứ khẩu tung hoành gian.”

Cả vua lẫn quan đều ngẩn ra mà không biết phải giải quyết ra sao. Vua bèn vội sai một viên quan văn đi mời ngay trạng về triều để may ra có thể giải được bài thơ thách đố.

Viên quan lại được sai về quê mời Nguyễn Hiền, gặp lúc Nguyễn Hiền đang nô đùa với chúng bạn, ông nói với viên quan: “Trước đây vua nói ta chưa biết lễ, thì nay chính vua cũng không biết lễ. Không ai đi mời trạng nguyên về kinh lại không có lễ nghĩa”. Quan bèn về tâu lại với nhà vua rồi đem đồ lễ, mũ áo và xe ngựa đàng hoàng cung kính đến đón, Nguyễn Hiền mới chịu về kinh.

Về kinh rồi, vừa lướt qua bài thơ, trạng hiểu ngay được nội dung, đó chính là lối chiết tự tiếng Hán phồn thể viết theo kiểu thơ vần, liền đáp nghĩa bài thơ:

“Hai mặt trời bằng đầu nhau [Hai chữ Nhật đặt cạnh nhau thì thành chữ Điền].

Bốn hòn núi nghiêng ngả [Bốn chữ Sơn quay đầu vào nhau thành chữ Điền].

Hai vua tranh một nước [Hai chữ Vương đặt ngang dọc và chồng lên nhau là chữ Điền].

Bốn miệng ngang dọc trong khoảng đó [Bốn chữ Khẩu xếp lại thành 2 hàng ngang dọc cũng là chữ Điền]”.

Sử dụng cách triết tự chữ Hán, Nguyễn Hiền 1 lần nữa phá giải câu đố của người phương Bắc.

Tức là, toàn bộ 4 câu thơ chỉ để miêu tả một chữ “Điền” [ruộng]. Bài thơ ý nghĩa giản dị nhưng không hề đơn giản. Sau khi giải xong, trạng Hiền viết thư gửi sứ giả người Hoa, không những làm triều đình mát mặt mà còn làm sứ giả phương Bắc bái phục sự thông minh của người dân đất Việt. Sau lần này, Vua Trần Thái Tông phong cho Trạng Hiền ngay chức Ngự sử đài kiêm Đông Các Đại học sĩ Thượng thư bộ Công.

Một lần khác, triều đình Trung Hoa lại cho người mang sang nước ta bức thư chỉ vẻn vẹn hai chữ “thanh thúy”. Đây quả là một lần khó khăn nữa đối với triều đình ta nhưng không hề làm trạng Hiền nao núng. Đọc xong lá thư trạng phê ngay vào mấy chữ: “Thập nhị nguyệt xuất tốt”, và tâu vua Trần nên đưa quân ra biên giới phòng thủ vì sắp có chiến tranh vào tháng 12. Quả nhiên, vào đúng tháng 12 năm ấy, quân Mông Cổ đến đầu biên giới không ngờ quân ta có quân phòng ngự nghiêm ngặt, bèn tự động rút binh về.

Hai lá thư ngắn ngủi của phương Bắc nhưng chứa đựng hàm nghĩa không hề giản đơn. Như thế mới càng chứng minh được tài năng siêu phàm của ông “trạng non”, minh chứng được trí tuệ của con người Đại Việt, lãnh thổ chúng ta tuy nhỏ bé, nhưng trí tuệ thì không hề như vậy, hoàn toàn có thể đứng ngang tầm với các nền văn minh lớn khác trên thế giới.

Lại nói về trạng Hiền, đúng là nhân tài đoản mệnh. Ông ra đi ở cái tuổi 21 do lâm phải trọng bệnh, để lại bao nuối tiếc vào ngày 14/8 năm Bính Tý [1256]. Nhà vua thương tiếc truy phong ông là “Đại vương thành hoàng” và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội.

Người dân cũng nhớ ơn lập đền thờ ông tại quê hương ông và lưu giữ nhiều kỷ vật về ông. Nguyễn Hiền là một kỳ tài mãi được đời đời ca tụng như câu:

“Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc

Vạn niên thiên tuế lập tam tài.”

Tạm dịch:

“Mười hai tuổi khai khoa hai nước

Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài.”

Nguyệt Hà/DKN

Xem thêm:

Vị Tân khoa trẻ tuổi

Nguyễn Hiền quê ở Dương A, huyện Thượng Nguyên, phủ Thiên Trường sau đổi là trấn Sơn Nam Hạ [nay huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định]. Thuở nhỏ, ông học thông viết thạo, được mọi người quý mến. Tương truyền, khi lên 10 tuổi, gia đình cho ông đi học thầy chùa. Thầy chùa mới viết được 10 trang giấy, Hiền liền đọc được ngay như người đã từng đi học rồi. 

Năm 11 tuổi, tiếng tăm Hiền đã lừng lẫy ở kinh đô và được mệnh danh là thần đồng. Bấy giờ có người họ Đặng tự thấy mình đã đọc hết các sách, nghe tiếng tăm Hiền muốn đến thử tài văn bút, liền tìm đến nhà Hiền và lấy đầu đề theo bài phú "Phượng hoàng sào a, kì lân du úc". Khách ra hạn số câu và mỗi câu đều có tiếng chỉ về một loài cầm thú. 

Hiền ứng khầu đáp ngay rằng: "Phi long kiên chiểu/Mã bất xuất hà /Ý bỉ Hữu Hùng chi thế/ Ấp vu Duyên Lộc chi a". Nghĩa là: "Rồng không bay lên nơi ao, hồ/Ngựa không từ sông phi ra/ Đẹp thay đời có họ Hữu Hùng/Làm nhà ở nơi Duyên Lộc. 

Người họ Đặng hết sức thán phục và tấm tắc khen “Thiên tài! Thiên tài!”. Năm ấy, Hiền thi hương đỗ đầu [Giải nguyên]. Vào năm Thiên ứng Chính Bình thứ 16 [âm lịch năm Tân Mùi], vua Trần Thái Tông trọng dụng hiền tài, chiêu đãi kẻ sĩ. Vua cho mở khoa thi lớn. Nguyễn Hiền mới mười ba tuổi về kinh ứng thí và lập tức được lấy đỗ trạng nguyên. Khóa thi này, ngoài Nguyễn Hiền đỗ Trạng Nguyên còn có 2 người khác đỗ cao và cũng cùng có một điểm chung. Đó là họ đều còn rất trẻ tuổi.

Đền thờ Trạng Nguyên Nguyễn Hiền tại Nam Định 

Người đỗ thứ hai chính là Lê Văn Hưu, Bảng Nhãn 18 tuổi và Đặng Ma La, Thám Hoa 14 tuổi. Chúng ta ít gặp nhiều tài liệu viết về Thám Hoa Đặng Ma La nhưng tên tuổi của vị danh y lỗi lạc Lê Văn Hưu được rất nhiều sử sách ghi lại. Sau này, Lê Văn Hưu có thời gian ra làm quan nhưng chủ yếu thời gian ông dành cho nghề thuốc. 

Về Trạng nguyên Nguyễn Hiền, tuy còn nhỏ tuổi song phong thái tự nhiên, đĩnh đạc, đối ứng trôi chảy. Rất ngạc nhiên, Vua Trần Thái Tông mới tò mò hỏi vị Tân khoa: "Trạng nguyên học ở đâu?". Trạng Hiền quỳ tâu: "Thần xin tâu bệ hạ, thần chỉ học thần...và thỉnh thoảng có hỏi sư ông ở chùa làng thêm đôi ba chữ. 

Vua thấy Trạng Hiền nói năng quê kịch mà còn có vẻ kiêu căng không được vừa lòng nên truyền phán buộc Trạng trở về học lễ nghĩa thêm. Trạng Hiền vì thế chưa được ban áo mão. Trạng Hiền về quê, ngày ngày đọc sách nhưng vẫn ham chơi bời, thường lúc rỗi rãi vẫn cùng trẻ con cùng lứa chơi khăng, thả diều. 

Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép lại sự kiện này. "Năm Chính Bình thứ 16, Vua Trần Thái Tông ngự ở sân đình, gặp các vị tân khoa đỗ cao trong kỳ thi. Thấy Hiền tuy còn nhỏ tuổi, chưa rõ phép tắc lễ nghĩa nên chưa ban mũ áo, chỉ cho người hộ tống về quê để học thêm phép tắc".

Câu chuyện tiếp sứ Tàu

Một lần, sứ nhà Nguyên sang nước ta. Nghĩ rằng Đại Việt không có người tài, lại tỏ ra mình hiểu biết hơn người nên không coi ai ra gì. Y đưa ra một con ốc xoắn nhờ xâu qua ruột nó một sợi chỉ mảnh. Viên sứ ngênh ngang cho biết: "Được như vậy, ta mới chịu vào thành".

Biết rõ viên sứ muốn thử tài quân dân Đại Việt, Vua Trần Thái Tông bèn truyền cho các quan tìm cách xâu thử nhưng vị nào cũng loay hoay và đành lè lưỡi, lắc đầu. Chợt có người mách Vua hỏi thử Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Vua sực nhớ bèn lập tức cử người đi hỏi Trạng.

Viên quan được giao việc về xã Dương A gặp ngay một là trẻ chăn trâu nghịch đất đầu làng. Thấy trong đó có một cậu bé mặt mũi khôi ngô đang bày cho lũ bạn đắp một con voi bằng đất mà tứ chỉ lẫn tai, vòi... có thể ngoe nguấy cử động được, sứ giả đồ chừng đó là Trạng Hiền bèn buông một vế đối thăm dò xem đúng có phải là Trạng Nguyên không. Thực ra, vị quan này nghe danh tiếng của Trạng nguyên Nguyễn Hiền đã lâu nhưng chưa gặp mặt, ông mượn dịp này để mắt thấy tai nghe.

Truyện tranh giai thoại về Trạng nguyên Nguyễn Hiền.  

Vị quan ra vế đối: "Tự là chữ, cất giằng đầu, tử là con, con ai con ấy?". Cậu bé nghe được, không ngước mặt lên, cũng thủng thẳng buông một câu: "Vu là chưng, bò ngang lưng, đinh là đứa, đứa nào đứa này".

Về câu đối của viên quan nọ, chủ ý của ông này xuất một vế đối theo lối chiết tự chữ Hán. Chữ tự có hai bộ phận trên như cái giằng xay, dưới là chữ tử. Để nguyên tự có nghĩa là chữ, bỏ giằng trên còn lại chữ tử nghĩa là con và gắn luôn với vế nôm tiếp đó thành một câu hỏi nửa chữ nửa nôm. Câu hỏi cũng có sắc thái của người trên hỏi kẻ dưới. 

Thấy đối phương ra vế đối như vậy, Trạng Hiền cũng đối lại bằng cách chiết tự kết hợp với một phần nôm, chữ vu là chưng có hai nét ngang và một nét móc, bỏ nét ngang ở dưới thành chữ đinh nghĩa là đứa, đi với với nào đứa này là một vế đối ý rất chỉnh và có phần xấc xược. Nhận câu đối lại, viên quan không hề tỏ ra giận dữ mà trái lại, rất vui mừng vì đích thực đây chính là Trạng Nguyên Nguyễn Hiền. 

Ông ta bèn xuống ngựa truyền lại ý vua vời Trạng về kinh. Nhưng Trạng Hiền không chịu, viện lẽ rằng, trước vua cho trạng kém lễ buộc về, nhưng lần này vua cho vời Trạng lên lại cũng không giữ đúng lễ. Viên quan không biết làm thế nào, phải trần tình đầu đuôi chuyện sứ giả nước ngoài đưa câu đố mà chưa ai giải được. Trạng Hiền nghe biết chỉ cười, trở lại với đám trẻ chăn trâu. Chờ cho viên quan lên ngựa đi một đoạn, ông mới xui đám trẻ cùng hát: 

Tích tịch tang, tích lịch tang!/ Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng/ Bên thì lấy giấy mà bưng/ Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang/ Tích tịch tang, tích lịch tang! 

Viên quan nghe nhẩm thuộc lời ấy, biết Trạng đã chỉ cách giải đó, vui vẻ ra về. Ngay sau khi đối đáp được sứ thần Trung Hoa, Vua Trần Thái Tông ra lệnh cho quân lính mong mũ mão Trạng Nguyên về tận quê của Nguyễn Hiền mời ông ra giúp nước. 

Về đến triều đình, sứ thần nhà Nguyên Đô Sử vẫn còn ở lại đây. Thấy vị Trạng Nguyên Đại Việt còn ít tuổi, tỏ rõ sự coi thường. Hắn ta ra vế đố: Lưỡng Nhật bình đầu Nhật/ Tứ Sơn điên đảo Sơn; Nhị vương tranh nhất quốc/ Tứ khẩu tung hoành gian.

Hiền đứng mà trả lời ngay rằng: "Đó là chữ điền vậy". Sứ Bắc thán phục, Hiền liền được vua trao cho chức Công bộ Thượng thư. Và ít lâu sau triều đình phương Bắc lại gửi thông điệp với 2 chữ "Thanh thủy". Vua chưa hiều thông điệp muốn nói gì. Hiền giải thích ngay rằng: "Tháng 12 xuất quân". Thời bấy giờ Bắc triều muốn cầu viện biên giới, lợi dụng các hào trưởng địa phương để dễ bề đối phó Vua tôi nhà Trần. Nghe vậy, Vua Trần Thái Tông bèn cử binh hùng tướng giỏi dẹp bè lũ tay sai. Vào tháng 12, giặc Nguyên lui vì kế hoạch không thành.

Những năm làm quan trong triều, Nguyễn Hiền có nhiều kế sách hay để phò vua giúp nước. Năm Ất Hợi, nước ta lại bị giặc Chiêm Thành xâm lược, nhà vua rất lo bèn giao cho trạng nguyên Nguyễn Hiền đánh giặc giữ nước.

Chỉ ít lâu sau, quân giặc thất bại, Trạng Hiền thu quân về Vũ Minh Sơn mở tiệc khao quân và tâu lên vua. Nhà vua vô cùng vui mừng và phong cho ông Trạng chức "Đệ nhất hiển quý quan". Về nông nghiệp, ông cho đắp đê quai vạc sông Hồng, phát triển sản xuất mùa màng thắng lợi. Về quân sự, ông cho mở mang võ đường để rèn quân luyện sĩ.

Ngày 14 tháng 8 năm Bính Tý, Trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng và qua đời, thọ 21 tuổi. Nhà vua thương tiếc truy phong ông là "Đại vương thành hoàng" và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội - huyện Đông Anh, Hà Nội.

Hiện nay, tại đền thờ Trạng Nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông, thôn Dương A [Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định] còn giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, đại tự, đặc biệt bảo tồn được cuốn Ngọc phả nói về sự nghiệp của ông, trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau:

"Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc, Vạn niên thiên tuế lập tam tài". Tạm dịch là: "Mười hai tuổi khai khoa hai nước, Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài". Yêu mến và cảm phục tài năng của ông, huyện Thượng Hiền đổi tên thành huyện Thượng Nguyên để tránh phạm húy tên ông.

Ngọc Trìu [biên soạn]

Theo Xa lộ Pháp luật

Video liên quan

Chủ Đề