Trong phản xạ bật đèn thì chó tiết nước bọt, trung tâm xử lý thông tin nằm ở đâu ?

Phản xạ có điều kiện là một phương thức phản xạ của động vật bậc cao, lần đầu tiên được nghiên cứu chi tiết và công bố bởi nhà khoa học Nga là I. P. Paplôp [tên tiếng Nga: Ива́н Петро́вич Па́влов] thông qua các thí nghiệm với chó và được công bố năm 1897. Phương thức phản xạ này cũng xảy ra ở người.[1][2][3][4]

Ví dụ về sự hình thành và kết quả phản xạ có điều kiện ở chuột, theo học thuyết Paplôp.

Mục lục

  • 1 Từ nguyên và nội hàm
  • 2 Ngoại diện
  • 3 Tóm tắt
  • 4 Xem thêm
  • 5 Chú thích
  • 6 Tham khảo
  • 7 Liên kết ngoài

Từ nguyên và nội hàmSửa đổi

Phản xạ có điều kiện là thuật ngữ dịch từ tiếng Nga: Усло́вный рефле́кс do chính I. P. Paplôp đề xuất, dùng để chỉ loại phản xạ chỉ có thể có sau khi cá thể động vật nào đã được tập luyện, hoặc trải qua, mặc dù sinh ra chưa có; còn cá thể nào không trải qua học tập thì không thể có.[2][5]

Ngoại diệnSửa đổi

  • Thuật ngữ "phản xạ có điều kiện" hiện được dùng phổ biến ở Nga, Việt Nam,...[3][4] Đã có một thời gian khá dài, các tư tưởng của Paplôp họp thành "học thuyết phản xạ có điều kiện" hoặc "học thuyết Paplôp", được giảng dạy phổ biến trong nhiều trường học của các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa.
  • Sau đó, trải qua hơn nửa thế kỷ, sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại - tuy vẫn công nhận cống hiến của Paplôp - đã dẫn đến các học thuyết khác cũng về sự hình thành tập tính của động vật, cũng "có điều kiện", v.v.[6][7] nên khái niệm "phản xạ có điều kiện" này còn được gọi là "có điều kiện kiểu Paplôp" [conditioning Pavlovian] hoặc "có điều kiện cổ điển" [Classical conditioning] ở nhiều nước phương Tây.

Tóm tắtSửa đổi

Khoảng cuối những năm 1890, Pavlov nghiên cứu chức năng dạ dày của loài chó bằng cách quan sát sự tiết dịch vị của chúng, sau đó ông tính toán và phân tích dịch vị của chó và phản xạ của chúng dưới các điều kiện khác nhau. Ông để ý rằng chó thường tiết dịch vị khi phát hiện ra các tín hiệu báo hiệu sự xuất hiện của thức ăn. Sau này Pavlov đã xây dựng lên định luật cơ bản mà ông gọi là "phản xạ có điều kiện" dựa trên hàng loạt thí nghiệm mà ông tiến hành trước đó. Nhưng thí nghiệm này chỉ có tác dụng với những chú chó làm thí nghiệm đã được huấn luyện lâu dài, còn với những chú chó mới sinh ra và chưa qua huấn luyện thì không được. Pavlov cho rằng đây là một loại phản ứng đối với sự kích thích từ bên ngoài, ông gọi nó là "phản xạ có điều kiện" của động vật. Phản xạ có điều kiện dễ mất đi nếu không được củng cố thường xuyên.

Sau này Pavlov còn đi sâu nghiên cứu về những vấn đề này đồng thời đã viết ra tác phẩm nổi tiếng của mình. Vì những thành tựu này, ông đã nhận được giải thưởng Nobel năm 1904 [Nobel Prize in Physiology or Medicine].[8]

Xem thêmSửa đổi

  • Phản xạ không điều kiện
  • Mô hình RescorlaWagner.
  • Giả thuyết Tolman.

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ УСЛОВНЫЙ РЕФЛЕКС.
  2. ^ a b W.D. Phillips & T.J. Chilton: "Sinh học" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2004.
  3. ^ a b "Sinh học 8" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2016.
  4. ^ a b "Sinh học 11" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2015.
  5. ^ Условный рефлекс.
  6. ^ Saul McLeod. Tolman - Latent Learning.
  7. ^ N. J. Mackintosh. Tolman and modern conditioning theory.
  8. ^ Nobel Prize.

Tham khảoSửa đổi

Liên kết ngoàiSửa đổi

Video liên quan

Chủ Đề